|
|
Giới
thiệu: Chư
Tổ, tuy Ấn, Hoa có khác, nhưng cùng vẻ thiên dung
đạo mạo, rờ rỡ sáng ngời, khiến người chiêm
ngưỡng, vơi sạch lòng trần, thấy tướng liền
ngộ tâm. Chỉ trong sớm tối, ngàn năm cùng quay
về với chư Tổ trong đại quang minh tạng. Chẳng có
đạo ảnh thì lấy gì làm nên chuyện đó? Khoảng
đời Hồng Vũ, một số ham thích đạo, cả Tăng và
tục, cùng nhau miêu họa đạo ảnh Phật và Tổ,
từ Tôn giả Đại Ca Diếp đến các vị tôn túc
cổ sơ trong nước, tính ra là 120 vị, rồi tàng
trữ tại núi Ngưu Thủ phía nam kinh đô. Nét bút
tinh thần, phong độ cao khiết, nếu chẳng do sự
kỳ diệu của tâm tư, cảm ứng đến chỗ u linh thì
dễ gì có được bút pháp như vậy! Tam
Tổ: Tôn Giả Thương Na Hòa Tu
Phiên
âm Hán Việt: Tôn
giả Ma-Đột-La quốc nhân dã, tính Tỳ Xá Đa,
tại thai lục niên, ứng thụy nhi sinh. Hậu
xuất gia học tiên đạo, cư Tuyết sơn. Nhân
A-Nan tương nhập diệt, thời sơn hà đại địa
lục chủng chấn động, Tôn giả đồng ngũ bách
tiên nhân lễ A-nan túc, nhi quỵ thỉnh viết:
“Ngã ư trưởng lão, đương chứng Phật pháp,
nguyện thùy độ thoát.” A-Nan tức biến Hằng
hà vi kim địa, vị thuyết đại pháp viết: “Tích
Như Lai dĩ Chánh Pháp Nhãn phó Đại Ca-Diếp,
chuyển phó ư ngã, ngã kim phó nhữ.” Tôn giả
ký đắc pháp hàng nhị hỏa long, dĩ kiến phạm
cung, chuyển đại pháp luân.
Hậu phó pháp
dữ Ưu Ba Cúc Đa, tức ẩn
Kế
Tân quốc, Tượng Bạch sơn, hiện thập bát biến, hỏa quang
tam muội tự phần kỳ
thân. Dịch: Tổ
Thứ Ba Thương Na Hòa Tu (Shanakavasa) Tôn
giả nguyên là dân nước Ma-Đột-La (Mathura), dòng
Tỳ Xá Đa (Vishodaka), ở trong thai mẹ sáu năm,
ứng vào điềm lành mà sanh ra đời. Về sau, Tôn
giả xuất gia học đạo tiên ở núi Tuyết. Nhân
khi tổ A-Nan nhập diệt, núi sông đất bằng
nổi lên sáu cách chấn động, Tôn giả dẫn năm
trăm tiên nhân đến đảnh lễ dưới chân Tổ,
quỳ xuống thỉnh rằng: “Chúng con phải chứng
pháp Phật tại nơi trưởng lão, nguyện xin trưởng
lão độ thoát cho chúng con.” Tổ A-Nan liền
biến sông Hằng thành bình địa, bằng
vàng, rồi thuyết pháp lớn rằng: “Xưa, đức
Như Lai đem Đại Pháp Nhãn trao cho tổ Đại
Ca-Diếp, rồi Đại Pháp Nhãn lại chuyển đến
ta, nay ta trao cho ngươi.” Chứng được pháp
rồi, Tôn giả hàng phục hai con rồng lửa để
xây đạo tràng và chuyển bánh xe pháp. Về sau Tôn
giả truyền pháp lại cho Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta),
đi tới núi Bạch Tượng nước Kế Tân
(Kashmir),
hiện mười tám kiểu thần biến, rồi nhập vào Hỏa Quang
tam-muội, tự đốt thân. Tán Ứng
thụy nhi sinh Chuyển
diệu pháp luân Ngũ
bách tiên chúng Duy
tổ đặc tôn Vô
đoan nhất ngữ Ấn
phá diện môn Hàng
long phục tượng Đạo
bố càn khôn.[1] Dịch: Khi
sanh ứng điềm lành Nhiệm
mầu chuyển pháp luân Tiên
nhân năm trăm vị Riêng
tôn một mình Tổ Nói
thẳng chẳng mào đầu Một
lời là ấn chứng Hàng
phục rồng cùng voi Đạo
lan tràn vũ trụ. Hoặc
thuyết kệ viết: Tu
tiên học đạo nhập thâm sơn Khấu
thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lân Ngũ
bách đan khách quy Tam bảo Lưỡng
điều hỏa long thượng cửu thiên Chánh
Pháp Nhãn Tạng phó tâm ấn Kim
sắc đầu đà định Vân Nam Tổ
tổ tương thừa vô ngôn thuyết Đăng
đăng hỗ ánh cánh quang tiền.[2]
(Tuyên
Hóa Thượng nhân tác) Dịch: Tu
tiên học đạo chốn thâm sơn Lạy
Tổ A- Nan cầu độ thoát Tiên
khách năm trăm quay về Phật Cặp
rồng bay thẳng tận mây xanh Chánh
pháp truyền trao qua tâm ấn Đầu
đà thân vàng định Vân Nam Tổ
tổ tiếp nối không lời nói Ánh
đuốc giao thoa mãi rạng thêm. (Thượng
Nhân Tuyên Hóa) Giảng:
Tôn
giả Ma-Đột-La quốc nhân dã, tính Tỳ Xá Đa: Vị
tổ thứ ba, Thương Na Hòa Tu (Chú 1) là dân nước
Ma-Đột-La, dòng Tỳ Xá Đa. Tại
thai lục niên: Trường
hợp của Tổ và của Tôn giả La Hầu La cũng tương
tự nhau khi sanh ra đời, nghĩa là thai nằm trong
bụng mẹ suốt sáu năm; Ứng thụy nhi
sinh: Khi sanh ra đời có rất nhiều điềm lành
phát sanh.
(Chú 2) Hậu
xuất gia học tiên đạo, cư Tuyết sơn: Về
sau xuất gia học đạo Lão, tu khổ hạnh trong núi
Tuyết. Đạo tiên còn gọi là đạo Lão.
Nhân
A-Nan tương nhập diệt, thời sơn hà đại địa
lục chủng chấn động: Khi
tổ A-Nan sắp vào Niết-bàn thì sông núi đất
đai nổi lên sáu cách chấn động như đất rung
(chấn), nổi tiếng rống (hống), tiếng đập (kích),
các hiện tượng chuyển động (động), vụt
lên (dũng), nhô lên (khởi). Tôn
giả đồng ngũ bách tiên nhân lễ A-Nan túc, nhi
quỵ thỉnh viết: Hồi
đó có năm trăm vị tiên theo Tôn giả học đạo,
cùng đi đến trước Tổ A-Nan khấu đầu đảnh
lễ, quỳ xuống, hai tay để xuống chân Ngài,
rồi bạch rằng:”Ngã ư trưởng lão, đương
chứng Phật pháp, nguyện thùy độ thoát.”: “Nay
trưởng lão sắp vào Niết-bàn, chúng con xin theo
Ngài để tu học Phật pháp. Chúng con phải làm
đệ tử của Ngài, học Phật pháp nơi Ngài,
vậy xin trưởng lão xót thương mà độ cho chúng
con, đặng chúng con thoát vòng sanh tử.” A-Nan
tức biến Hằng hà vi kim địa: Lúc
đó Tôn giả dùng phép biến sông Hằng thành bình
địa, mặt đất là vàng, nước thì biến mất,
không còn nữa. Đây là phép biến hóa, không
phải là sự thực, nên chỉ có tính cách tạm
thời, không phải vĩnh viễn. Lúc sông Hằng
biến ra đất vàng thì từ trên trời mưa
xuống, nào hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la, hoa
mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa, bởi mỗi lần có
chấn động sáu cách, các hiện tượng này đều
xuất hiện như trên. Bởi lý do nào Tôn giả
A-Nan lại hóa phép như vậy? Điều này chứng
tỏ rằng Phật pháp là không thể nghĩ bàn,
trong thế gian này mọi thứ đều vô thường. Vị
thuyết đại pháp viết: “Tích Như Lai dĩ Chánh
Pháp Nhãn phó Đại Ca-Diếp, chuyển phó ư ngã,
ngã kim phó nhữ.”: Tổ
A-Nan nói pháp lớn cho Tôn giả Thương Na Hòa Tu
nghe như sau: “Xưa, đức Như Lai trao Đại Pháp
Nhãn cho Ngài Đại Ca-Diếp, Tôn giả Đại
Ca-Diếp truyền lại Đại Pháp Nhãn cho ta, nay ta
giao Đại Pháp Nhãn cho ngươi”. Tôn
giả ký đắc pháp hàng nhị hỏa long, dĩ kiến
phạm cung, chuyển đại pháp luân: Sau
khi được trao Đại Pháp Nhãn, Tôn giả Thương
Na Hòa Tu đi du hóa các nơi độ chúng sanh. Hồi
đó tại khu rừng Ưu Lưu Trà thuộc nước Ma Đột
La có hai con rồng lửa chiếm cứ, không cho bất
cứ ai đến ở, và nếu có xây dựng chùa miếu
thì chùa miếu cũng bị nạn hỏa tai. Khi qua địa
phương này, Tôn giả đã hàng phục được chúng,
cho chúng quy y Phật rồi, ở đó Tôn giả dựng
lên một ngôi đạo tràng thanh tịnh để hoằng
dương Phật pháp.
(Chú
3) Hậu
phó pháp dữ Ưu Ba Cúc Đa, tức ẩn Kết tân
quốc Tượng Bạch sơn, hiện thập bát biến
hỏa quang tam muội, dụng phần ký thân: Về
sau Tổ Thương Na Hòa Tu truyền lại pháp cho Tôn
giả Ưu Ba Cúc Đa và ẩn thân tại núi Bạch Tượng,
miền nam nước Kế Tân (Kashmir), về phía bắc
của xứ Ấn độ. Khi viên tịch, Tổ thị hiện
mười tám phép biến
(4)
trên không trung, hiện ra
Hỏa Quang tam muội
(5)
và dùng lửa đó thiêu thân. Bài
Tán Ứng
thụy nhi sinh Chuyển
diệu pháp luân Ngũ
bách tiên chúng Duy
tổ đặc tôn Vô
đoan nhất ngữ Ấn
phá diện môn Hàng
long phục tượng Đạo
bố càn khôn. Ứng
thụy nhi sinh, chuyển diệu pháp luân: Hồi
đó có điềm lành được phát hiện. Điều này
ứng vào sự ra đời của Tôn giả Thương Na Hòa
Tu, báo trước sự xuất hiện của bậc thánh nhân,
ra đời để chuyển pháp luân mầu nhiệm. Ngũ
bách tiên chúng, duy tổ đặc tôn:
Năm
trăm vị tiên cùng học pháp với Tôn giả và
tất cả đều nguyện xin quy y với Tổ A-Nan,
chớ không muốn quy y với ai khác. Vô
đoan nhất ngữ, ấn phá diện môn:
Không
một lời mào đầu, chỉ một câu nói là ấn
chứng ngay. Hàng
long phục tượng, đạo bố càn khôn: Tôn
giả hàng phục rồng lửa, về sau ẩn thân trong
núi bạch Tượng. Đạo pháp của Tôn giả
lan truyền khắp càn khôn vũ trụ. Bài
kệ Tu
tiên học đạo nhập thâm sơn Khấu
thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lân Ngũ
bách đan khách quy Tam Bảo Lưỡng
điều hỏa long thượng cửu thiên Chánh
Pháp Nhãn Tạng phó tâm ấn Kim
sắc đầu đà định Vân Nam Tổ
tổ tương thừa vô ngôn thuyết Đăng
đăng hỗ ánh cánh quang tiền. Tu
tiên học đạo nhập thâm sơn: Tôn
giả Thương Na Hòa Tu cầu phép trường sinh nên
vào núi tu học làm đạo sĩ. Khấu
thỉnh Khánh Hỷ vọng thùy lân: Về
sau, khi Tổ A-Nan sắp vào Niết-bàn, đất đai
nổi lên sáu cách chấn động, Tôn giả biết
rằng nơi đó có thánh nhân, bèn đi đến khấu
đầu xin Tổ độ cho, hầu thoát khỏi vòng sinh
tử. ”Khánh Hỷ” chính là Tổ A-Nan. Ngũ
bách đan khách quy Tam Bảo: Những
người tu đạo tiên có phép luyện đan, nên người
ta thường gọi họ là “đan khách” – khách
luyện đan. Tôn giả mang năm trăm quyến thuộc,
nghĩa là năm trăm đồ đệ, cùng một lúc đến
với Tổ A-Nan, quy y Phật, Pháp, Tăng. Lưỡng
điều hỏa long thượng cửu thiên: Tôn
giả hàng phục hai con rồng lửa, cho chúng về cõi
trời, không cho ở lại nhân gian tác quái. Chánh
Pháp Nhãn Tạng phó tâm ấn: Tổ
truyền lại Pháp Nhãn cho Tôn giả Thương Na Hòa
Tu, đó là pháp nhiệm mầu truyền tâm ấn. Kim
sắc đầu đà định Vân nam: “Kim
Sắc Đầu Đà”
tức là Tổ Ca-Diếp; Ngài hiện nay tại Vân Nam
và vẫn còn ở trong định. Tổ
tổ tương thừa vô ngôn thuyết: Đây
là pháp môn truyền thừa giữa các Tổ; tuy gọi
là pháp nhưng thực ra pháp đó ra sao, niệm theo
cách thức nào, tụng chú gì, tóm lại chẳng có
gì hết ! Chỉ là lấy tâm ấn tâm, nên gọi là
pháp môn truyền tâm ấn, ngoài ra chẳng có lý
thuyết gì khác. Đăng
đăng hỗ ánh cánh quang tiền: Ánh
sáng các ngọn đuốc qua lại với nhau thì sức
sáng càng gia tăng; “cánh quang tiền” là ý
muốn nói rằng phía trước cái sáng còn có cái
sáng hơn. Thượng
Nhân Tuyên Hóa giảng ngày mồng 2 tháng 11 năm
1983 Ghi
Chú: (1)
Về nguyên ủy danh xưng Thương Na Hòa Tu, xin
xem Phật Tổ
Thống Ký Tổ
thứ ba, Tôn giả Thương Na Hòa Tu là trưởng
giả thành Vương Xá. Trong một kiếp quá khứ, Tôn
giả là một thương gia có lần gặp trên đường
một vị Bích-chi Phật bị bịnh nặng. Tôn giả
kiếm thuốc thang để chữa trị, thấy áo của
vị này rách nát, nên kiếm áo dạ cúng dàng. Bích-chi
Phật nói rằng: “Đó là áo Thương Na,
mặc áo đó thành đạo, nên nay lại mang áo đó
để vào Niết-bàn”. Nói xong Bích-chi Phật bay
thân lên không trung, hiện mười tám phép biến
rồi nhập Niết-bàn. Vị thương gia rất đỗi
bi ai, chất củi thơm lên hỏa táng xá
lợi rồi dựng tháp để cúng dàng, đồng thời
phát lời nguyện đến đời sau sẽ có công đức,
oai nghi và y phục giống hệt như vậy. Do
nguyện lực này mà trong năm trăm kiếp thân
trung ấm, áo Thương Na vẫn thường mang trên mình,
và đến kiếp sau cùng thì tấm áo nói trên cũng
từ trong thai mẹ ra đời, lớn lên thì áo theo
với thân thể mà tăng trưởng, khi xuất gia thành
áo của người tu, khị thọ đại giới thì
biến thành áo “chín mảnh” (cửu điều y). Đó
là nguyên ủy của danh xưng Thương Na Hòa Tu. Tập Tây
Vực Ký có ghi rằng: “Từ nước
Phạm Diễn Na (Bamiyan, nay thuộc A Phú Hãn) đi
về phía đông của núi Tuyết, có một già-lam
(tu viện) tàng trữ áo Thương Na chín mảnh, may
bằng chỉ đỏ. Tôn giả Thương Na Hòa Tu để
lại chiếc áo cà sa này khi nhập diệt, dặn đệ
tử rằng khi nào pháp tận thì áo đó mới
biến hoại. Nay áo không còn nữa.” (2) Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục ghi như
sau: Tổ
thứ ba, Tôn giả Thương Na Hòa Tu. . . cha Tôn
giả là Lâm Thắng, mẹ là Kiều Xa Da, ở trong
bụng mẹ 6 năm mới sanh ra. Tiếng Phạn “thương
nặc ca” có nghĩa là “áo tự nhiên”, là tên
của một lọai cây quý, sáu nhánh, thuộc vùng Tây
Vực, hễ khi nào có La Hán, hay thánh nhân giáng
trần thì mọc lên ở một nơi tinh khiết. Tôn
giả Hòa Tu sanh ra chính là ứng vào điềm lành
này. (3) Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục ghi như
sau: Lúc
xưa, khi đức Như Lai du hóa tại nước Ma Đột
La, qua một khu rừng xanh, thấy cây cối tươi
tốt, bèn nói với Tôn giả A-Nan: “Tại khu
rừng Ưu Lưu Trà này, một trăm năm sau khi ta vào
Niết-bàn, sẽ có Tỳ kheo Thương Na Hòa Tu,
chuyển pháp luân nhiệm mầu ở đây.” Quả nhiên
một trăm năm sau, Tôn giả Hòa Tu ra đời, xuất
gia chứng đạo, thọ Pháp Nhãn của Tổ Khánh
Hỷ và hóa độ chúng sanh. Khi tới khu rừng này,
Tôn giả hàng phục hai con rồng lửa, cho chúng
quy y Phật giáo, do đó chúng nhường lại chỗ này
để Tôn giả lập nên một đạo tràng.
|