|
|
Không Thể So Sánh Ma Với Phật Hòa Thượng Tuyên Hóa
Vào
thời nhà Minh (Trung Hoa), Đại sư Liên Trì (1535-1615)
sau khi xuất gia đã đi khắp nơi để tìm minh sư học
đạo. Sau khi vào kinh đô, Ngài đến tham bái hai vị đại
lão đạo cao đức trọng trong Thiền Tông là Biến Dung
và Tiếu Nham. Sau khi được hai vị lão sư khai pháp
chỉ điểm, Đại sư Liên Trì đến Đông Xương và khi
nghe tiếng trống thì bỗng nhiên giác ngộ. Nhân đó Ngài
làm bài kệ: Nhị
thập niên tiền sự khả nghi, Nghĩa
là: Mối
nghi từ hai mươi năm trước Bất
luận là đọc Kinh hay xem Luận, chúng ta cũng phải dùng
trí tuệ để phân biệt phải trái. Điều tối kỵ là
chúng ta dùng tâm, ý và thức để suy đoán. Vì tâm, ý
và thức chỉ là để dối lừa người. Ba thứ nầy có
sức mê hoặc rất lớn, khiến cho con người không phân
biệt được phải trái, lý sự chẳng minh bạch, đen
trắng lẫn lộn thành ra hỗn độn không rõ ràng. Có
một số lý luận, mới nghe thì hình như có đạo lý,
nhưng người có trí vừa xem qua là biết không đúng, còn
người vô trí thì bị mắc lừa và nghe theo một cách
thích thú. Có một số khác thì như người mù dắt
kẻ đui, không phải vì cố ý, mà vì tự bản thân
họ cũng chưa hiểu rõ. Cho nên họ đưa đẩy người
khác lạc hướng vào lối rẽ, cuối cùng chẳng đến
được nơi tốt lành. Bởi
vậy chúng ta đừng nên xem thường việc phát biểu ý
kiến của mình. Nếu trên vấn đề căn bản mà chúng
ta luận giải xằng bậy, thì đó sẽ như câu nói:
“Sai một hào một ly thì khác biệt một trời một
vực,” thậm chí còn làm cho cả thế giới rơi vào hoàn
cảnh đen tối, không ánh sáng. Do đó, trên nguyên tắc
lý luận, chúng ta phải có sự nhận thức chính xác, rõ
ràng. Nếu chúng ta chỉ dựa vào tâm, ý, thức mà suy
đoán, rồi phê bình lung tung và tùy ý khen chê, tức là
bỏ Phật để nhập bọn với ma quỷ, là chuyện không
thể được. Như
nói về vấn đề ma và Phật, chúng ta không nên chạy
theo lý luận xằng bậy. Ví như có một số người cho
rằng: “Ma, Phật như một, hai mà không hai.” Nhưng
người Phật tử đâu thể nào giống như ma quỷ; nếu
giống thì người ta đâu cần phải tin Phật mà cứ
tin theo những lời ngông cuồng của ma quỷ cũng được
vậy! Có người nói: “Ma là mặt trái của bậc
Thiện tri thức đến giúp đỡ chúng ta.” Đó vốn
là nói về hoài bão của lòng từ bi, cũng là một
lối nói để an ủi cái tự ngã, dùng tâm lý dỗ dành
trẻ con là bảo nó chớ quá giận dữ. Cách nói như
thế cũng vẫn là để hóa giải việc phân tranh và oán
hận ở bên trong, bởi không muốn xem ma quỷ như kẻ
thù địch. Nếu nói mặt trái của ma quỷ là giúp đỡ
người, nhưng nó cứ lần lượt nuốt sống con người,
hoặc là đưa con người vào chỗ chết, như thế thì
gọi là “giúp đỡ” sao? Do
đó chúng ta cần phải giữ vững lập trường căn
bản, giờ khắc nào cũng giữ chánh niệm. Một khi chúng
ta sanh tâm tham, hoặc tham mau, tham thần thông, tham có
hiệu quả nhanh chóng, tham linh cảm, thì ma liền nhân
đó mà xâm nhập vào. Có một số người rất thông
minh, nhưng tại sao cũng có lúc họ bị tâm ma khí
quỷ? Là bởi đối với những nguyên tắc căn bản,
họ chưa có được sự nhận thức rõ ràng. Nếu họ
nắm được căn bản rõ ràng, thì bùa chú của ma cũng
không linh nghiệm đâu. Chúng ta không cần phải niệm
chú, mà chỉ cần không tranh, không tham, không cầu,
không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ là
ma sẽ không có cách gì nhập được. Sau
nhiều năm học Phật, tôi kết luận rằng “Lục đại
tông chỉ” nầy là có nhiều hữu dụng nhất.
Phật Pháp không phải là bàn luận cao xa, rộng lớn
hoặc nói chuyện huyền diệu, lạ kỳ. Lại càng không
phải là đoán xằng nói bậy về họa phước, hoặc bói
toán hung kiết, hên xui. Trên thế giới nầy không
biết đã có bao nhiêu người biết bói đoán tiên tri
như thế. Nhưng đó là mánh lới của bọn giang hồ thích
nói về thần thông, dùng những lời lẽ yêu quái hoang
đường để mê hoặc dân chúng. Đó là họ đang rao bán
thuốc cao thuốc dán đấy. Và đúng thật là những người
đó có thể biết được quá khứ vị lai. Ví như họ
nói với quý vị rằng: “Tôi biết ngày mai sẽ có người
đến thăm anh, người đó lại còn nói với anh như
thế nầy, thế nầy...” Hoặc như: “Trước kia anh đã
làm những việc gì, tôi đều biết rõ cả...” Nhưng
họ đều có chỗ sơ sót là không dứt được dâm
dục, hoặc háo tài, hoặc luyến sắc. Đó đều là
cảnh giới của ma quái. Nếu người nào có
tâm tranh, tâm tham, cầu danh cầu lợi, hoặc tuyên
truyền đề cao cá nhân mình để cho người khác sùng
bái mình, lại còn ích kỷ tự lợi và không nói lời
chân thật thì chúng ta nên biết rằng, người đó
đang trong cảnh giới của ma. Nhân
dịp Đại Sư Liên Trì tham bái hai vị Lão Sư Biến
Dung và Tiếu Nham, Đại Sư được hai vị khuyên bảo
rằng: “Người xuất gia tu đạo là vì sanh tử đại
sự. Đừng để danh lợi làm liên lụy!” Lúc bấy giờ tại đạo tràng
cũng có một số người tham gia học tập, nhưng không
mấy ai để ý đến lời khai thị nầy. Duy chỉ có Đại
Sư Liên Trì là thâm hiểu được ý nghĩa sâu xa mà tâm
trí đầy hứng khởi. Cho nên khi rời kinh sư đến Đông
Xương, Đại Sư bỗng hoát nhiên khai ngộ bèn làm bài
kệ trên. Thật ra bốn câu thơ đó chỉ là thứ yếu.
Còn lời lẽ tối trọng yếu là không
được tìm cầu danh lợi, và đó mới là chìa khóa
chủ yếu của câu chuyện nầy. Quý
vị đừng tưởng rằng Đại Sư Liên Trì đến Đông Xương
mới khai ngộ. Mà ngay từ lúc đầu, Đại Sư đã
từng bước, từng bước đi trên con đường khai ngộ
rồi. Đến lúc đứng trước mặt hai vị Lão Sư Biến
Dung và Tiếu Nham, bị hai Ngài hét cho một tiếng lớn
vào đầu khiến Đại Sư hoát nhiên khai đại ngộ
ngay. “Sau khi xuất gia thì không ham mê danh lợi”--đó là bài chú có hiệu quả
nhất, có thể chiến thắng tất cả bọn ma quân. Chúng
ta hãy xem lời văn của bài kệ như sau:
Lạ
thay cái ngộ ngoài ngàn dặm.
Trải qua ba ngàn dặm, sau đó Đại Sư đến Đông Xương
thì đột nhiên khai ngộ. Điều nầy sao mà kỳ diệu
quá! Bao chấp trước của Đại Sư bỗng nhiên tiêu tán
hết! Đốt
hương ném kích như giấc mộng.
Thắp nhang cúng Phật là chuyện tốt, còn ném đao kích,
đánh lộn với ma quân là chuyện xấu. “Trịch kích”
cũng có thể là ném bỏ khí giới, tức là không đánh
nhau nữa. Tất cả những điều đó cũng giống như
giấc mộng thôi! Vì sao giống như giấc mộng? Bởi vì
mình chưa hiểu rõ một cách triệt để. Ma,
Phật, phải trái: uổng công tranh.
Bây giờ Đại Sư đã hiểu rồi. Trước đây vì Đại
Sư cứ dụng công ở chỗ thị phi hư vọng, cho nên đều
là uổng phí tâm sức! Đại sư Liên Trì cũng không
nói rằng: Phật và ma như là một. Mà ma là ma, Phật là
Phật. Hai bên đều đã không quan hệ với nhau thì có
thị phi, phải trái gì đáng phải tranh cãi chứ?
Những cuộc bàn luận phải trái lúc trước đều là hư
vọng, chẳng phải thật. Nếu
muốn hàng phục bọn ma, quý vị phải có chút ít công
phu chân thật, không phải chỉ nói thiền nơi miệng mà
có thể làm được. Còn
một cách nói khác là: “Vô ma bất hiển Phật, vô
Phật bất hiển ma,” không có ma thì Phật chẳng
thị hiện, không có Phật thì ma chẳng lộ diện. Ma và
Phật cũng là pháp tương đối với nhau, chứ không
phải khi Phật khai ngộ rồi thì ma và Phật là nhất
như, là một đâu. Sau khi Phật khai ngộ rồi thì ma,
Phật cũng vẫn như trước, chỉ ngoại trừ - Phật thì
không có tư tưởng thù địch. Phật xem tất cả chúng
sanh đều bình đẳng và ma cũng là một phần tử trong
chúng sanh, cho nên Phật xem ma là đồng đẳng. Nhưng ma
đối với Phật có bình đẳng hay không? Tuyệt đối là
không! Vì lúc nào ma cũng muốn lật đổ Phật. Qua
hai mươi năm sau, Đại sư Liên Trì mới hiểu rõ đạo
lý không tranh. Đại
Sư giác ngộ rằng trước đây mình chỉ tranh cãi
phải trái ở bề ngoài một cách vô ích. Lúc đó Đại
Sư đã không hồi quang phản chiếu và không quét dọn
sạch sẽ cái tự tánh của mình, cho nên hễ người ta
tranh là Đại Sư liền phiền não. Tôi
nói đạo lý rất là đơn giản, hy vọng quý vị ngẫm
nghĩ lại cho kỹ càng. Bởi vì trên nguyên tắc, chúng
ta không được phạm sai lầm. Quý vị đều còn trẻ,
và cũng không nên tùy tiện nói: “Ma và Phật như là
một.” Có lẽ người đã đại triệt, đại ngộ
rồi thì có thể nói như thế, bởi vì cảnh giới
hiểu biết của họ không giống với quý vị. Nhưng chúng
ta hãy còn là trẻ con, cho nên không được dối mượn
đạo lý của người xưa, để rồi gượng gạo luận
giải một cách sai lầm. Ví như trẻ con chưa biết lái
xe, mà quý vị để cho nó lái thì rất dễ gây ra tai
nạn, đến nỗi mất mạng là khác. Có
một số người khi nghe nói “Ma Phật Nhất Như” thì
nghĩ rằng: “Thế thì mình lạy Phật để làm gì? Mình
làm nghiệp ma thì không phải cũng là nghiệp Phật hay
sao?” Vì vậy trên nguyên tắc phân biệt, chúng ta
phải hiểu cho rõ ràng, chớ có nghe một cách hồ đồ
như vậy, rồi vội cho rằng mắt con cá là hạt ngọc
trai! Giảng
ngày 29 tháng 8 năm 1985
|