|
|
Hòa
Thượng Tuyên Hóa Hãy
hồi quang phản chiếu, xem mình có ở đây hay không ! Câu
kinh trên chính là tinh yếu của Tâm
Kinh. Nay lược giảng như sau: “Quán
Tự Tại” có
nghĩa là hồi quang phản chiếu, tự quán sát xem mình
tự tại hay không tự tại.
Nói
cách khác là xem mình có “ở đây” hay là không có
“ở đây”. Nếu như tự tại (có ở đây), tức là
tâm của mình không chạy rông, không đuổi theo các
thứ duyên, không phan duyên. Nếu như không tự tại
(không ở đây), tức là tâm của mình đang tán
loạn, vọng tưởng rối bời; thậm chí có thể có
vấn đề về thần kinh, tâm lúc nào cũng tìm cơ
hội để khiến cho mọi người đến cúng dường mình.
Nếu có những vọng tưởng như vậy, quý vị sẽ không
tự tại. Trong
mọi hành vi, bậc Bồ-tát đều hướng tới lợi ích của chúng
sanh, coi đó là mục tiêu duy nhất, tuyệt đối
chẳng vì lợi ích của chính mình. Ý hướng của phàm
phu chúng ta thì hoàn toàn trái ngược
với tất cả, đều chỉ nghĩ tới lợi ích
của riêng mình, chứ không phải vì lợi ích của chúng
sanh. Bất cứ làm một việc gì, trước tiên chúng ta
đều đắn đo tính toán xem việc đó có lợi cho mình
hay không.
Hễ
thấy có lợi thì mới làm, không có lợi thì không làm.
Ðó chính là biểu hiện của lòng ích kỷ và tự
lợi. Bởi đâu mà thế giới chẳng được hòa bình?
Chính vì nguyên do đó. Quý vị tranh thì tôi đoạt,
không có sự tương trợ lẫn nhau, từ đó mới có
chiến tranh, gây nên thảm cảnh nước mất nhà tan. Vị
Bồ-tát này có thể "thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Ða."
Từ vô thủy đến nay, đời đời kiếp kiếp ngài đều
thực tập pháp thâm sâu này, không lúc nào gián đoạn.
Tu pháp Bát Nhã thâm sâu, tức là: 1.
Không có tâm kiêu ngạo, bởi kiêu ngạo là ngu si. 2.
Không có tâm tự mãn, bởi tự mãn là ngu si. 3.
Thường có tâm hổ thẹn (tàm quý, bởi không có tâm
hổ thẹn là ngu si. 4.
Không sanh tâm đuổi theo các duyên (tâm phan duyên),
bởi để tâm rong ruổi theo ngoại duyên là ngu si. 5.
Không sanh tâm sân hận bởi có sân hận là ngu si. 6.
Không sanh tâm điên đảo bởi tâm điên đảo là ngu
si. Chúng
ta là những người tu hành thì phải xem sáu loại tâm
đó làm tiêu chuẩn, hầu có thể xét đoán những hành
động của mình có đúng với pháp hay không. Nếu đúng
thì hành động của ta là có trí huệ, nếu sai thì là
ngu si. Cũng có thể nói rằng “siêng tu giới định
huệ, dập tắt tham sân si” tức là trí huệ; không
tu giới định huệ, không diệt tham sân si là ngu si.
Trí huệ và ngu si khác nhau ở những điểm đó. Phải
tu tập pháp Bát Nhã thâm sâu thì mới có thể soi
thấu năm mươi loại cảnh giới ấm ma trong năm
uẩn. Trong
sắc uẩn có mười loại ấm ma, trong thọ uẩn có mười
loại, trong tưởng uẩn có mười loại, trong hành
uẩn có mười loại, trong thức uẩn cũng có mười
loại, cộng lại tất cả có năm mươi loại ấm ma.
Tách ra từng phần thì còn có vô số vô lượng,
nếu người tu không cẩn thận sẽ dễ dàng đi vào
cảnh giới ma. Nói chung, hễ có tà tri tà kiến là
thuộc về quyến thuộc của ma, nếu là chánh tri chánh
kiến thì thuộc về quyến thuộc của Phật. Khi
thực hành pháp thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Ða thì
sẽ nhận ra được cảnh giới ma một cách rõ ràng,
không còn bị chúng ma lay chuyển. Tới lúc đó, ngoài
khả năng “soi thấu năm uẩn là không,” chúng ta còn
có thể vượt qua được hết mọi khổ ách. Năm
uẩn là không, có nghĩa là Chân Không. Có câu nói: Chân
Không vô nhân ngã, Ðại
Ðạo vô hình tướng. Nghĩa
là: Chân
không, chẳng người chẳng ta, Ðạo
lớn, không hình không tướng. "Hết
mọi khổ ách" tức
là nói các mối khổ trong ba thứ tai, tám thứ nạn (tam
tai bát nạn). Nếu
như theo đúng pháp trong các câu Kinh nói trên để tu
tập, tu cho đến rốt ráo thì hành giả sẽ đạt
tới trình độ chế ngự được “tám thứ gió - bát
phong xuy bất động. Thế nào là bát phong? Ðó là tám
món gồm khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, phỉ báng
và vinh dự. Những thứ này coi như tám ngọn gió
có thể làm lay chuyển và quay cuồng những ai không
đủ định lực. Nay giảng sơ qua như sau: 1.
Khen: Khen hay xưng tán. Nếu có người xưng tán, khen
ngợi mình một câu, thì mình thấy như vừa nhận
được một cảm giác rất ngọt ngào, còn hơn là
mật nữa và mình thấy thoải mái. 2.
Chê: Chê là chê bai. Như có người chê bai mình, mình
liền thấy bực dọc, không vui, trong lòng không
thoải mái. 3.
Khổ: Ðây là khổ não. Gặp chuyện gì phiền hà mình
cảm thấy khổ sở. Khi gặp phiền não, hãy thử xem
mình có chịu được không. 4.
Vui: Vui hay khoái lạc. Gặp điều vui sướng không nên
lấy làm đắc ý. Mọi điều khoái lạc đến thì chúng
ta hãy coi đó là một sự khảo nghiệm, để thử xem
tâm ý của mình ra sao. 5.
Lợi: Ðây là lợi ích. Ðược lợi ích thì mình
cảm thấy vui, bị thiệt hại thì mình cảm thấy
buồn, đó là biểu hiện của sự yếu kém định
lực. 6.
Suy: Suy nghĩa là suy bại. Dù gian nan đến đâu, chúng
ta cũng không nên nao núng, có thất bại cũng không động
tâm. 7.
Phỉ báng: Ví dụ có người nói xấu mình, mình không
quan tâm! Mình coi chuyện đó như không có gì cả,
tự nhiên sóng gió sẽ hết. 8.
Vinh dự: Như có người xưng tán mình, vinh danh mình,
mình cũng không nên cảm động. Chỉ nên coi các thứ
công danh như phù vân. Tám
loại gió này chính là một pháp môn dùng để khảo
nghiệm tâm của người tu—dù gặp thuận cảnh hay
nghịch cảnh, tâm đều không dao động. Nếu động
tức là tu trì chưa đủ, chưa có công phu định
lực; nếu không động thì chứng tỏ là mình đã có
công phu. Tuy nhiên, không nên tự mãn, như tự khoe
khoang rằng: "Bát phong chẳng lay động được ta,
định lực của ta kiên cố như kim cương." Thái
độ này là sai lầm. Thuở
xưa, vào đời nhà Tống có vị cư sĩ là Tô Ðông
Pha, đã từng nghiên cứu ít nhiều về Phật Pháp, nhưng
công phu thiền định thì còn yếu kém. Tuy nhiên, ông
cho rằng định lực của ông cũng đã khá. Có một hôm,
nhân nguồn cảm hứng dạt dào, ông làm bốn câu kệ
sau: Khể
thủ thiên trung thiên Hào
quang chiếu đại thiên Bát
phong xuy bất động Ðoan
tọa tử kim liên. Nghĩa
là: Khấu
đầu lạy chư thiên Hào
quang chiếu đại thiên Tám
gió lay chẳng động Ngồi
vững trên tòa sen. Lúc
đó ông tự nghĩ rằng mình đã khai ngộ, nên muốn có
sự ấn chứng của Thiền sư Phật Ấn. Ông bèn sai
người mang bài kệ đó tới chùa Kim Sơn ở bên kia sông. Thiền
sư xem qua liền đề bốn chữ: "Ðánh rắm! Ðánh
rắm!" ngay trên tờ giấy có bài kệ, rồi đưa
cho thị giả mang về. Tô Ðông Pha xem xong, lửa vô
minh bốc lên ngùn ngụt. Ông giận dữ: "Sao lại
có chuyện này? Ðây là bài kệ khai ngộ! Ông ta dám
bảo là “đánh rắm” là có ngụ ý gì?" Thế là,
ông lập tức đi qua sông tìm Thiền sư Phật Ấn để
chất vấn. Chẳng
dè khi đến cổng chùa, Thiền sư Phật Ấn đã đứng
chờ sẵn, thấy ông đi tới thì cười lớn:
"Ồ! Xin chào mừng Ðại Học Sĩ họ Tô, bát
phong không lay chuyển được ông, nhưng lại bị cái
rắm “thổi” qua sông tới đây! Xin chào
mừng!" (Hai ông chính là bạn thân, thường vui đùa
với nhau). Tô Ðông Pha đương lúc lửa sắp sửa bùng
ra, nghe Thiền sư nói mấy câu, xét lại thấy có lý,
nên nhìn nhận công phu định lực của mình còn non
nớt và hướng tới Thiền sư đảnh lễ tạ tội.
Kể từ đó ông bỏ thói "khẩu đầu
thiền". Tu là thực hành, chẳng phải nói suông. Chỉ nói mà không làm được, điều đó vô nghĩa.
|