|
English | Vietnamese Vâng
Lời Dạy Bảo Tu Hành Báo Đáp Ơn Thầy [1] Trần
Quả Kiệt viết
Tôi
mãi mãi không thể nào quên chuyến đi vào năm 1984 cùng Sư Phụ
sang Chùa Kim Luân hồi đó còn tọa lạc trên đường số 6 ở Vào
thời thập niên 80, tôi thường xuyên có dịp đi chung xe cùng Ngài. Thể
hiện thân tinh tấn của bậc tu hành, ngồi trong xe trên đường đi
về, Ngài cũng không ngừng niệm lâm râm; có lúc Ngài đột nhiên
cung kính cẩn trọng chắp tay, mỗi giờ mỗi khắc đều đang tu hành
độ chúng sanh, mọi nơi đều lấy thân mình làm mực thước. Trên
lộ trình đường dài, Thượng Nhân thỉnh thoảng hoan hỷ xướng
tụng “Vĩnh Gia Đại Sư Chứng Đạo Ca” cho chúng tôi nghe. Ngài
có trí nhớ phi thường, không có một bộ Kinh nào Ngài không
thuộc nằm lòng. Tôi
hỏi Ngài tại sao có được trí nhớ tốt như vậy? Ngài
trả lời là vì chẳng vọng tưởng, tâm không có những vọng
niệm lăng xăng. Trên
đường đi, có lần tôi cảm thấy cảnh vật bên ngoài rất hữu
tình nên mời Ngài ngắm xem; Ngài bảo: “Mắt tôi chẳng hướng
ra ngoài để xem!” Đó
cũng là Ngài chỉ dạy tôi đừng hướng ra ngoài để theo đuổi tìm
cầu, phải hướng nhìn vào trong. Vì
muốn làm cho Phật giáo mọc gốc bén rễ ở phương Tây, Thượng
Nhân gian nan khổ cực khai triển đạo tràng, đii tới lui nhiều nơi,
có khi ngay cả vào ban đêm. Lúc bấy giờ đoạn đường nửa giờ
cuối đến Vạn Phật Thánh Thành là con lộ đất rất quanh co
nhỏ hẹp, mà có khi Ngài phải tới lui giữa Cựu-Kim-Sơn (San
Francisco) và Thánh Thành một ngày hai lần. Ngài
trải qua muôn ngàn gian khổ, đổ mồ hôi, trút bao tâm huyết,
chẳng ngơi nghỉ; ngày ngày đều như thế, năm này qua năm nọ đều
như thế, không có lòng mệt mỏi chán nản. Dù
khó nhọc cực khổ thế nào, chúng tôi chưa bao giờ thấy Ngài hưởng
thụ, Ngài chỉ luôn nguyện vì chúng sanh thọ khổ. Vào
những năm đầu thập niên 90, ngay cả khi Ngài đang bệnh nặng, có
một Phật tử rất hiếu kính cúng dường Ngài một chiếc ghế
nệm dài rất êm, mong rằng Ngài có thể tĩnh dưỡng thoải mái;
nhưng chiếc ghế nệm dài ấy trước sau chẳng được dời vào
gian phòng của Ngài tại Viện Dịch Kinh. Như Ngài đã từng nói,
Ngài chẳng có chút lòng tham mảy may nào dù nhỏ như sợi tóc, Ngài
không bao giờ mưu cầu sự thoải mái và tiện nghi trong đời
sống cá nhân. Ngài lúc
nào cũng nói là Ngài chẳng có đức hạnh, không dám tiêu phước;
bởi vì khi đã hưởng cạn hết phước, khi vị ngọt đã khô
cạn thì vị đắng sẽ đến. Sư
Phụ thường hay nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta phải trân quý
nguồn tài nguyên có được, vì
nguồn tài nguyên ấy không dễ gì có được; trời chưa tối hẳn
thì không cần mở nhiều đèn ở khắp nơi, khi rời khỏi phòng không
cần dùng đèn thì đừng quên tắt đèn. Lãng
phí của Thường Trụ thì phải gánh chịu nhân quả. Mọi
người ai ai cũng đều biết một tờ giấy lau tay Ngài dùng rất lâu,
phải dùng đến khi thực sự không còn có thể dùng nữa mới
vứt bỏ. Nhưng rất
ít người biết việc Ngài vì tiết kiệm điện nên không mở đèn
ở chỗ ở, và có một lần lúc trở về vì trời tối, nhìn không
rõ nên Ngài bị té ngã từ trên lầu té xuống. Tôi
kể ra đây chẳng phải vì muốn mọi người bắt chước không
mở đèn để bị té ngã; nhưng để ghi nhớ: nếu
như không có tinh thần khắc khổ tiết kiệm của Ngài, hôm nay chúng
ta đã không thể nào có được đạo tràng tốt đẹp như thế này
! Gia
phong của Ngài là đạo tràng mỗi ngày đều phải chuyển Pháp luân. Một
ngày chẳng chuyển Pháp luân, thì một ngày không ăn cơm. Những
người ở trong đạo tràng nếu chẳng có mặt vào thời khóa sáng,
chiều, không nghe Kinh thính Pháp, là phải dọn đi chỗ khác. Ngài
sẽ hỏi quý vị: “Quý vị ở đây không nghe Kinh, vậy quý vị
đến đây để làm gì?” Lúc
Thượng Nhân còn tại thế thì người lớn và trẻ em đều phải
có mặt ở Phật điện để huân tập tu học, trẻ em có thể
học bài của chúng trong Phật điện. Bất
kể bao gian nan khổ nhọc vì Phật giáo, Sư Phụ mỗi ngày đều có
rất nhiều công việc bề bộn; nhưng Ngài không bao giờ hé miệng
gọi Phật tử lái xe đưa đi chỗ này chỗ nọ, cũng không bao
giờ hé môi gọi Phật tử mua giùm món này, món kia; càng không bao
giờ nhờ vả ai để họ
vì Ngài mà hao tốn tiền bạc. Thượng
Nhân là một đấng cương nghị phi phàm, Ngài lập tôn chỉ: “Lạnh
chết chẳng phan duyên[2],
đói chết chẳng hóa duyên, nghèo chết chẳng cầu duyên”, là
bao gồm cả việc chẳng gọi ai lái xe cho Ngài, chẳng gọi ai mua
giúp đồ đạc cho Ngài. Tại
vì sao vậy? Bởi do Ngài
chẳng tự tư, chẳng tự lợi, không có tự kỷ thì Ngài là vô ngã[3]. Hơn
thế nữa, Thượng Nhân thiết lập qui chế nề nếp nghiêm mật
ở các đạo tràng là: “Người
chẳng muốn tu hành, không được phá rối người khác tu hành;
cấm ngăn sự cấu kết, lôi kéo phe phái, a dua nịnh hót, tâng
bốc bợ đỡ”. Ngài
dạy rằng người tu hành ở ngay đạo tràng mà làm chuyện kéo phe
lập đảng là hành vi rất xấu xa, chẳng thanh tịnh; đi đứng
ngồi nằm đều phải có oai nghi, thời thời khắc khắc phải
dụng công hành đạo, đừng bỏ phí thì giờ. Không
được vừa nói vừa cười, nghiêng ngả õng ẹo, nhìn qua nhìn
lại, từ sớm đến tối nói hoài chẳng hết chuyện, đối với
Pháp không có một lòng tôn kính. Sư Phụ dạy chúng ta có
thể mỉm cười hoặc hội ý cười nhẹ; hồi trước nếu có đạo
hữu phái nữ đồng tu tùy tiện há miệng cười lớn, Ngài sẽ
lớn tiếng rống giọng như sư tử trước đại chúng và hỏi cô
cười cái gì! Có kẻ cười
lớn mất hết uy nghi thì sẽ bị phạt quỳ trước mặt đại chúng
mấy giờ đồng hồ. Dưới sự dạy dỗ nghiêm khắc như thế
của Ngài, trong tự viện chúng ta tuy cùng tiếp xúc gần gũi song
một năm cũng khó nói chuyện với nhau được vài ba câu. Bởi
vì thích nói chuyện là một chướng ngại to lớn cho việc tu hành,
ưa cười và ham nói đều có liên quan đến dục niệm, cho nên người
tu hành cần phải chẳng khóc cũng chẳng cười, chẳng bị chỗ tình
cảm ham muốn làm dao động. Thượng
Nhân thường bảo: “Không
có nề nếp quy củ, thì chẳng thành vuông tròn”; người tu hành
từ xưa đến nay đều phải nghiêm giữ nề nếp, mới có thể có
chỗ thành tựu. Khoảng
cách giữa Sư Phụ Thượng Nhân và chúng đệ tử thì chẳng quá
gần gũi, cũng chẳng quá xa cách, luôn giữ ở mức trung đạo. Nếu
như học trò rời đạo khá xa, Ngài sẽ đột nhiên kéo người đó
trở về, nhắc nhở phải từ bỏ chốn mê lầm, trở về tánh giác [4]. Đối
với Thượng Nhân mà nói, tứ chúng đệ tử quan trọng như nhau;
đối với chúng xuất gia, tại gia, Ngài đều cư xử bình đẳng,
không phân đảng phái, không chia chủng tộc, nghèo giàu, không có
tâm phân biệt, mà rất từ bi quan tâm mỗi một con người, không
có một điều gì mà Ngài không thể xả thí cho quý vị. Cái
gì người khác không thích, Ngài nhận lấy; cái gì quý vị muốn
có, Ngài chẳng hề do dự mà thí xả cho quý vị, bất kể quý
vị tham muốn bao nhiêu, Ngài đều có thể làm quý vị hài lòng. Sư
Phụ cũng thường hay nói với chúng tôi, người tu hành thì trong
đầu đừng có đầy ắp tính toán làm sao để có thể kiếm được
nhiều tiền hơn; cũng đừng bao giờ toan tính hết cách để nấu
ăn thật ngon, màu mè hoa lá, rườm rà như một bữa tiệc, làm hoa
mắt rối trí, bởi như thế có khác gì người thế tục, sáu căn
không được thanh tịnh. Thượng
Nhân chỉ dẫn rằng nếu muốn tu hành thì trước tiên phải từ
chỗ sáu căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý), sáu trần (sắc thanh hương
vị xúc pháp) đó mà hạ thủ công phu; nếu như chúng ta tham ăn
thức ăn ngon thì trên cơ bản chúng ta đã không ngừng bị lưỡi
căn vị giác làm quay cuồng. Nếu
chỉ vì không có thức ăn thơm ngon nên ăn cơm chẳng vô thì quý
vị làm sao có thể tu hành được chứ? Đó
chẳng phải là nấu cát mà mong thành cơm hay sao? Thượng
Nhân không ăn dầu, muối; thuở đầu có rất nhiều vị đệ tử
vì ngưỡng mộ sự tu hành của Ngài nên cũng bắt chước không ăn
dầu, muối. Có khi có người đặc biệt nấu vài món ăn ngon,
hay là mang rau cải, trái cây xếp đặt hoa mỹ đẹp đẽ mời Ngài,
thì ngày hôm đó Ngài chẳng dùng cơm. Kỳ
thực, Sư phụ thường khi không ăn cơm, có khi là vì hồi hướng
thế giới hòa bình; có khi vì đệ tử Ngài không vâng lời, Ngài
tự quở trách mình đã không dạy dỗ học trò nên người; có khi
là do giữa huynh đệ trong hàng đệ tử có chuyện tranh cãi, ngày
đó Ngài lặng lẽ chẳng dùng cơm, không có ai biết được lý do
tại sao. Có khi đến
nỗi chuyện đã qua gần 10 năm rồi mọi người mới hiểu rõ ra là
tại sao Ngài chẳng ăn cơm vào một hôm nào đó; mới nhớ lại là
vì trong nhóm họ đã bất đồng ý kiến trong lúc sửa soạn thức
ăn nấu nướng và xảy ra tranh cãi, Ngài tuy không có mặt trong nhà
bếp, nhưng lại chẳng có chuyện gì mà không hay, không có điều
nào xảy ra mà chẳng biết. Ở
Chùa Kim Sơn đường 15 Cựu Kim Sơn (San Francisco), nền nhà có chỗ
bằng xi măng không có trải thảm; bất kể có bao nhiêu cúng dường,
Thượng Nhân cũng chưa từng bao giờ chi tốn một xu tiền để mua
thảm trải. Trai đường
được dùng vào hai việc—buổi trưa là nơi thọ trai, buổi
chiều lại trở thành nơi lên lớp nghe pháp của chúng tôi. Thỉnh
pháp xong xuôi, nơi Ngài ngồi duy nhất là một chiếc ghế nệm cũ
rách nát. Sau khi có
Viện Dịch Kinh, có hôm tôi trông thấy chiếc ghế nệm đã bị lõm
sâu ở giữa; trong lòng nghĩ: Ai
mà cúng dường đạo tràng món đồ thật cũ kỹ như thế chứ? Về
sau từ từ hồi tưởng lại, tôi mới nhớ ra chiếc ghế cũ kia là
của Ngài lúc ở đường 15 và Ngài đã ngồi trên đó hơn 10 năm
rồi. Trong lòng tôi
rất cảm khái! Trong
ký ức của tôi, có một khoảng thời gian rất lâu dài, Thượng
Nhân không sử dụng tiền của thập phương để mua rau cải dùng
trong chùa. Chúng tôi
đi lượm nhặt rau cải thừa dư phung phí của thiên hạ vứt bỏ,
lựa lặt lại xong, lấy phần còn lại trong đó còn có thể ăn
được làm thức ăn, tuy không bày biện thành những món ăn làm
cho người ta trông thấy phải choáng mắt nhưng ăn vào cũng thơm
ngon không kém. Sư Phụ mỗi mỗi đều lấy thân mình làm gương
mẫu, dạy dỗ chúng ta lúc dùng tiền của thập phương phải rất
dè dặt, chớ bị sai phạm nhân quả. Vào
thời đó Thượng Nhân mỗi tuần giảng pháp ba lần, cuối tuần còn
phải thu xếp trở về Vạn Phật Thánh Thành để giảng dạy;
chẳng ngại công ngại khó vất vả lên về, chỉ vì giáo hóa chúng
sanh. Chúng tôi lúc đó
mỗi người đều nhất tâm chuyên chú vào Phật pháp, tâm luôn no
đủ, ngày ngày đầy ắp niềm vui Phật pháp[5],
nên tự nhiên chẳng hướng ra ngoài mà tìm cầu duyên cảnh để bám
víu; trong Chùa Kim Sơn ở đường 15, ở đâu cũng đều yên ổn tĩnh
lặng. Có
điều liên quan về ngày sinh nhật, Thượng Nhân bảo ngày sinh
nhật là Mẫu Nan Nhật (Ngày Mẹ Trải Qua Khó Khăn), không thể chúc
mừng, cần nên đọc tụng “Kinh
Địa Tạng” hồi hướng
cho mẹ hiền; chớ có học Phật càng học càng điên đảo, càng
học càng hồ đồ, làm kẻ mù dẫn người đui, đi sai đường
lạc lối, làm quấy phá gia phong đạo khí của đạo tràng. Người
tu hành phải đi ngược dòng nước chảy, đừng xuôi dòng hỗn
hợp bẩn thỉu[6];
phải làm ngọn đuốc bừng cháy trước cuồng phong gió bão. Thượng
Nhân xây dựng đạo tràng là nơi thanh tịnh, chẳng phải là nơi
chốn giao tiếp; Ngài muốn tạo ra những vị Phật sống, chứ
chẳng phải là nuôi nấng những kẻ kinh doanh giao tiếp công
cộng. Sư Phụ từ bi
giáo hóa chúng sanh, một mạch lời ngay nói thẳng, chỉ thẳng tâm
người; quý vị chẳng thích nghe, Ngài cũng phải nói. Ngài
chẳng phải la mắng ai, nếu như quý vị tu được thành công
rồi, quý vị sẽ hiểu được rõ ràng. Ngày
trước Thượng Nhân đã từng gọi điện thoại cho tôi không
biết bao nhiêu lần, mỗi lần đều nói cùng một chuyện: Những gì
Ngài khổ nhọc bỏ ra biết bao mồ hôi tâm huyết qua hơn 20 năm xây
dựng, thì hàng đệ tử chỉ cần mất vài ba phút thời gian là
hầu như có thể đem tất cả gia phong nề nếp đạo giáo tống
khứ theo mây gió thổi đi mất. Lần
đó trong lòng Sư Phụ vạn phần chẳng thể kể hết, chẳng thể
nào nói ra hết, nặng lòng đau xót lắm! Ấn tượng của tôi
hết sức sâu đậm! Nguyện
rằng chúng ta sẽ không tái phạm lần nữa, đừng để nề nếp
gia phong của Ngài đã muôn vàn khổ cực xây lập nên bị thổi
tan biến chỉ trong chớp nhoáng. Muốn
xây dựng Phật pháp hưng thịnh, chánh pháp trụ thế dài lâu,
thật sự phải nhờ cậy vào mỗi người con Phật y theo Phật pháp
đã dạy mà vâng theo tu hành[7];
đây là điều người người đều có trách nhiệm, ai ai cũng có
nghĩa vụ. Sư
Phụ! Con vẫn thường xuyên cảm nhận Ngài thật vô cùng cao cả! Chú
thích của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ: [1] Nguyên
văn chữ Hán: PHỤNG GIÁO
TU HÀNH BÁO SƯ ÂN. Trong
bài dich thường dùng các chữ "Thượng Nhân" và "Sư
Phụ" là cách đệ tử tôn kính gọi Hòa Thượng. Chúng tôi
giữ nguyên các cách xưng hô của bản Hoa ngữ. [2] Phan
duyên: bám víu, níu lấy, dựa theo, nhờ cậy vào (một điều
kiện hoàn cảnh trợ duyên bên ngoài hay do người khác hỗ trợ),
thường dùng với ý nghĩa tâm có ý mưu cầu nhờ cậy, có khi công
khai, có khi gián tiếp khéo léo .. Để phan duyên nhiều người dùng
hình thức như nhờ vả, van xin, khoa trương, hoặc quảng cáo
thiếu thành thật để dối gạt người khác, khiến họ lầm
tin... Do đó hạnh tu không phan duyên rất quan trọng! Còn có tâm
phan duyên tức còn bị tâm tham hoặc ngoại cảnh chuyển, vẫn còn
có ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Bậc chân
tu thì không phan duyên. Xin
xem thêm bài khai thị Người
Tu Hành Không Ðược Phan Duyên của
Hòa Thượng. [3] quên
mất cái TA [4] phản
mê quy giác [5] Pháp
hỷ sung mãn [6] ô hợp
|