|
|
Vietnamese|English Suy
Ngẫm:
Những
Bài Học Hòa Thượng Đã
Dạy Tôi Vào Mùa Hè Tôi Tự Làm
Khu Vườn Của Mình ¡@ Dĩ
nhiên chúng ta đều khôn ngoan hơn sau
khi chuyện đã xảy ra. Nhưng tôi
đã cần một thời gian dài để
đúc kết được những bài
học tôi học được vào mùa
hè năm đó. Bài học đã
được Hòa Thượng chỉ dạy,
nhưng không phải sự chỉ dạy ban
đầu nào cũng được ý
thức đầy đủ cho đến khi sự
thật hiển nhiên dần được
thực tế minh định đến kinh ngạc. Như
vào thời điểm năm 1968 khi năm người
chúng tôi sắp hàng lạy Hòa Thượng
những lạy cuối cùng trước khi đi
Đài Loan để trở thành những tăng
ni thọ cụ túc giới. Chúng tôi
đồng loạt lạy ngài, nhưng sau đó
Hòa Thượng làm chúng tôi kinh
ngạc khi ngài bảo chúng tôi lạy
lẫn nhau. Ngài hướng dẫn bảo
bốn người chúng tôi đứng phía
sau lạy vị tăng đứng đầu trong hàng,
sau đó ba chúng tôi lạy hai vị tăng
đứng đầu. Chúng tôi hai vị ni
lạy ba vị tăng, và cuối cùng tôi
là người đứng cuối hàng
lạy bốn người trước tôi. Hòa
Thượng nhẹ nhàng mỉm cười và
nói lời huấn thị khi chúng tôi
lạy. Tôi nhớ rõ ràng khi ngài
vừa nói vừa đi ngang qua tôi, lời nói
gần như là thì thầm "Người
cuối cùng là kẻ đầu tiên.¡¨
Vào lúc đó, tôi liên hệ
lời nói của Hòa Thượng với
sự quan sát của Ngài trong những khóa
thiền về việc chúng tôi đi thành
vòng tròn để không có người
nào thật sự là đầu tiên hay
cuối cùng. Và tôi nghĩ đó là
bài học hay để mang theo bên mình. Cho
đến khoảng mười lăm năm sau, khi
bốn người kia mà tôi đã đảnh
lễ vào ngày hôm đó, vì
những lý do nào đó họ đã
quyết định không làm tu sĩ nữa,
lúc đó câu nói đó mới
mang một ý nghĩa khác mà trước
đây vào lúc câu đó
được nói ra tôi không hiểu
được ý nghĩa. Mùa
xuân trước mùa hè đặc
biệt đó vào đầu thập niên
80 thật tuyệt hảo. Thời tiết hoàn
hảo tràn ngập với những ngày
đầy ánh nắng, những buổi chiều
với cơn gió nhẹ, cứ khoảng mười
ngày lại có cơn mưa thật tuyệt
diệu, và những buổi tối với
ánh trăng thanh mát. Ngồi trong văn phòng
trong tòa nhà ngoài cùng phía đông
nam khuôn viên Vạn Phật Thánh Thành,
trong lúc lắng nghe tiếng nước róc
rách qua những khe đá nhẵn trơn, tôi
quyết định xây dựng một khu vườn.
Ngoài tôi ra, không ai biết về
quyết định này. Bây giờ hồi tưởng
lại, tôi lại thấy khác. Điều
đầu tiên tôi nên đề cập là
khi tôi đang thu dọn các nhánh cây
và rác rến trên mảnh đất tôi
chọn để làm khu vườn của tôi,
thì một Sư Cô tình cờ đi
đến. Sư Cô là Sư Cô Tri Khách,
và một phần phận sự của vị
Tri Khách là thị giả của Hòa Thượng
về một phương diện nào đó.
Nhưng vào lúc đó tôi chưa
thấy được mối liên hệ. Sư Cô
khơi chuyện nhẹ nhàng mà tôi
chỉ cho là sự biểu lộ của sự
tò mò. "Cô
định làm một cái vườn sao?¡¨
Sư Cô hỏi. "Đúng!¡¨,
tôi tự tin trả lời. "Ồ!
Chúng ta có thật sự cần thêm
một khu vườn nữa không?¡¨ Sư Cô
nói một cách nhẹ nhàng, dường
như là một sự tự hỏi thành
lời. "Hai
cái vườn cộng đồng lớn đã
khởi sự rồi và chúng ta đang
thiếu người.¡¨ Cô ta nêu lên
với một giọng nhẹ nhàng. Tôi
gật đầu, nhưng tiếp tục làm
việc và không ý kiến gì cả.
Sau
khi ngừng một lúc, Cô ta đề
nghị một cách thẳng thắn hơn:
"Cô có thể giúp những khu vườn
kia, thay vì làm thêm cái nữa!¡¨ Tôi
vẫn giữ im lặng và không trả
lời, bận rộn với công việc tự
chỉ định của mình. Cuối
cùng Sư Cô gật đầu chào và
bước đi, để lại tôi một mình
như cũ. Tôi
không quan tâm về cuộc nói chuyện này.
Chỉ rất lâu về sau tôi mới nghĩ
rằng rất có thể Sư Cô được
Hòa Thượng gọi đến để
cố gắng chỉ ra cho tôi một chọn
lựa tốt đẹp hơn là sự lựa
chọn tôi đang làm, mà không có
vẻ như là ý kiến của Hòa Thượng. Khoảng
một vài ngày sau, tôi mượn
một chiếc xe kéo lớn cùng với lưỡi
bừa từ văn phòng và phá vỡ
đất bằng đường bừa đầu
tiên. Ngồi tuốt trên cao và điều
khiển chiếc máy nặng nề, tôi
hiển nhiên cảm thấy nhiều hơn là
một chút kiêu hãnh. Tuy nhiên, sự
tự mãn đó bị hoen ố rất nhanh
chóng khi miếng thép cứng của lưỡi
cày cán vào một con rắn, tàn
nhẫn lột miếng thịt ra khỏi lưng nó.
Tôi xoay mình trên ghế ngồi và
thấy con rắn rên siết trong ánh
nắng ban mai ¡V thịt phơi bày ra, điên
cuồng và hẳn nhiên đau đớn
cực độ. Tôi toát mồ hôi
lạnh! Nhưng
tôi vẫn tiếp tục. Lúc chạy
đường bừa thứ nhì qua mảnh
đất, tôi đẩy một con cóc
nhảy ngay vào đường của lưỡi
bừa và bị chết ngay vì lưỡi
bừa cán vào. Hai tay tôi run rẩy khi tôi
nhả cần số xuống và cố gắng làm
chậm lại cái máy sát sanh do tôi
điều khiển. Tuy nhiên, tôi đã
hoàn tất công việc. Chẳng
bao lâu sau đó tôi sám hối về
hai cái chết kể trên trong Phật Điện,
trước Hòa Thượng và đại
chúng. "Một con rắn và một con cóc
?¡¨ Hòa Thượng lập lại với
một chút không vui, theo sau một tiếng
¡§Ồ!¡¨ miễn cưỡng và có vẻ
buồn. Tôi
đã được huấn luyện để
phiên dịch. Đó là công việc
chính của tôi hoặc đúng ra nên
là như vậy. Thuở đó có
rất ít kinh điển Phật Giáo
bằng tiếng Anh và Hòa Thượng
muốn xuất bản thêm nhiều kinh sách
và càng sớm càng tốt. Tôi đã
nhận phần công việc và tôi
biết cần phải bắt kịp với công
việc của mình để có thể
chuyển giao cho ban kế tiếp của Hội Phiên
Dịch Kinh Điển đúng thời hạn. Nhưng
dự án về khu vườn của tôi
trở thành rất tốn thời gian, đặc
biệt vì đó không phải là khu
vườn ¡§chính thức¡¨. Có nghĩa
rằng những người cư trú tại
Vạn Phật Thánh Thành thay phiên làm
việc trong các khu vườn cộng đồng,
không phải trong khu vườn tôi tạo nên.
Tôi cố gắng duy trì khu vườn
của mình với một Sư Cô già nói
một thứ tiếng mà không ai trong khuôn
viên Chùa có thể hiểu được,
có lẽ vì vậy Sư Cô già
đã không biết đuợc khu vườn
cộng đồng thực sự ở đâu,
do đó đã đến để giúp
tôi. Hồi tưởng lại, tôi nhận
thức ra rằng Sư Cô già đó
đã nghĩ là mình làm đúng,
cũng giống như tôi đã tự
thuyết phục mình. Niềm hãnh diện
của tôi lớn dần với khu vườn
sum sê. Vì
ngày nào cũng đầy ắp với các
công việc như tỉa cây, trồng
trọt, bón phân , tưới nước....và
sau đó là thu hoạch, tôi bắt đầu
cảm thấy tất cả bộn bề đó
đưa đến việc cố gắng làm công
việc phiên dịch vào buổi tối. Sau
khi tụng xong phần chú buổi tối, tôi
thường đi thẳng về tòa nhà phía
đông nam đó, mở đèn lên
để tìm lối đi về văn phòng
của mình, sau đó làm việc đến
khuya. Đèn thường tắt hết vào
lúc 10 giờ rưỡi tối, nhưng tôi
thường phá giờ giới nghiêm này
và thức tiếp để làm việc.
Một hôm nọ, Hòa Thượng bắt
đầu phê bình công khai trong một
lớp học của Ngài (mà mọi người
trong Chùa đều tham dự) về việc phi
phạm điện và sự phô trương.
Ngài đang nói về tôi! Ngài công
bố rằng tôi đang tìm cách làm
ngài chú ý, biểu diễn từ xa
rằng tôi là một người phiên
dịch tận tâm, làm việc cả vào
buổi tối. Ngài than phiền sự thiếu
tiết kiệm, vì chỉ một người làm
việc mà mở nhiều ngọn đèn .
Chỗ ở của ngài và lớp học
trong tòa nhà này nhìn thẳng ra khu nhà
chỗ tôi làm việc, sự toả ánh
đèn buổi tối làm ngài khó
chịu . Khi Hòa Thượng than phiền thì
bản ngã cứng đầu của tôi
thầm lặng phản đối sự phê bình
đó,: "Điều đó thật quá
đáng! Tôi chỉ mở ngọn đèn
cổng trước cho đến khi tôi mở
đèn văn phòng và sau đó
đi trở lại tắt ngọn đèn ngoài
cổng . Tôi không bao giờ nghĩ Hòa Thượng
thấy đèn tôi mở khi tôi làm
việc vào buổi tối. Tôi thật
sự quá nhiều việc kia mà!". Cái
tôi (bản ngã) của tôi lên
tiếng ồn ào trong đầu, làm tôi
hoàn toàn bỏ sót thông điệp
trong những lời dạy của Ngài. Kết
cục vào cuối buổi học Ngài thông
báo tòa nhà phía đông nam vào
buổi tối là không ai được
đến . Bản ngã của tôi được
dịp gặm nhấm nỗi buồn! Mùa
hè trôi qua nhanh chóng, và tôi
chạy đua để bắt kịp với
những đòi hỏi của vụ mùa
đang chín tới, những cây cỏ
dại cứng đầu, và mùa thu
hoạch sắp đến. Công việc phiên
dịch bị ảnh hưởng và niềm hãnh
diện của tôi tăng lên khi tôi
bắt đầu thâu hoạch những cây trái
đầu tiên. Ngay vào lúc đó, cũng
vị Sư Cô trước đây đi đến.
Sư Cô lần này đến có chủ
đích chứ không phải đi ngang qua, mà
đi thẳng đến tôi. "Tôi đến
để nói lại lời nhắn của Hòa
Thượng,¡¨ Sư Cô nói chắc nịch.
Tôi đứng lặng yên, chờ đợi. "Ngài
muốn tôi nói với Sư Cô rằng ngài
sẽ không ăn một miếng rau cải nào
từ khu vườn nầy.¡¨ Ái
da! Dĩ nhiên, tôi đã thâu hoạch
những hạt đậu ngọt đầu tiên
và những rau cải tươi mọng với
ý nghĩ về Thầy tôi ở trong đầu.
Cô ta chỉ nói như thế. Không
mỉm cười. Không một lời khuyến
khích. Chỉ lời nhắn thẳng thừng như
thế! Không
chỉ vậy, lúc thời điểm thu
hoạch lên đến cao điểm, nhà
bếp cộng đồng đầy ắp với
rau cái từ vườn nhiều hơn khả năng
mọi người có thể ăn và
bảo tồn để khỏi hư. Hồi tưởng
lại, tôi nghĩ rằng số lượng thu
hoạch phụ trội đó có lẽ
bằng với số rau cải tôi thu hoạch
được từ khu vườn ích kỷ
của tôi. Phải
mất một thời gian tôi mới hấp thu bài
học được trọn vẹn. Về sau tôi
thấy rất rõ rằng việc làm khu vườn
theo định kiến bản ngã của tôi
đã khiến cho Hòa Thượng hao phí
thời giờ và năng lực quý báu
của Ngài để chỉ dạy cho tôi
những bài học mà đúng ra tôi
phải biết ngay từ đầu: 1.
Tham gia hòa đồng với công việc
của cộng đồng , không tạo ra
một đề án theo suy nghĩ bản ngã
cá nhân. 2.
Cứ nhất định làm theo cách riêng
của mình làm cho tôi tạo nên
trọng nghiệp. 3.
Làm công việc tôi đã được
huấn luyện để làm, giữ chí
nguyện của mình và làm đúng
thời hạn. 4.
Trong khi làm bất cứ việc gì, đừng
phô trương hay biểu lộ phong thái
đặc biệt. 5.
Và đau lòng thay thành quả của
bản ngã không xứng đáng để
nuôi dưỡng thân thể , và cũng
chẳng nuôi dưỡng được tâm
linh. 6. Sau cùng không kém phần quan trọng, chia sẻ công việc với cộng đồng tạo nên sự hòa điệu nhịp nhàng, đó chính là phần thưởng, chưa nói đến sẽ giúp làm giảm đi bản ngã cứng đầu của mình.
Năm
đệ
tử
xuất
gia đầu
tiên của
Hòa Thượng
tại
Hoa Kỳ đến
Đài Loan để
thọ
giới Cụ
Túc . Hình chụp
cùng Hòa Thượng
truyền
giới
tại
Đài Loan.
Năm
đệ
tử
xuất
gia đầu
tiên của
Hòa Thượng
tại
Hoa Kỳ chụp
hình củng
các cư
sĩ Đài Loan đã
cúng dường
cho Tăng Đoàn. *
: Sư Cô Hằng Trì (người thứ 3
từ phía bên phải trong hình trên)
là một trong năm người Hoa Kỳ đâu
tiên xuất gia với Hòa Thượng Tuyên
Hóa tại Hoa Kỳ. Trong dịp đầu năm
1968, Hòa Thượng cho biết trong năm đó
"Một hoa sẽ nở năm cánh". Vào
mùa hè năm 1968, Khóa tu học Lăng
Ngiêm 10 tuần được tổ chức
tại Kim Sơn Thánh Tự (ở San Francisco) và
Cô Hằng Trì (lúc đó còn là
sinh viên trường Đại Học Washington
với pháp danh Quả Tu) cùng nhiều sinh viên
khác đã tham gia trọn khóa tu 10
tuần này. Sau đó có 5 người
Hoa Kỳ xin xuất gia và Cô Hằng Trì
là một trong năm người đó. Sư
Cô Hằng Trì là môt trong những sáng
lập viên và là thành viên tích
cực của Tổng Hội Phật Giáo Pháp
Giới (DRBA) và Hội Phiên Dịch Kinh Điển
Phật Giáo (BTTS). Từ đầu thập niên
70 đến nay, Sư Cô là dịch giả
chính đã dịch từ Hoa Ngữ sang Anh
ngữ bản Kinh Lăng Nghiêm Lươc
Giảng cùng nhiều kinh sách khác.
Hiện nay ngoài việc phiên dịch, Sư Cô
còn phụ trách giảng dạy tại
Viện Đại Học Phật Giáo Pháp
Giới và điều hành các tu
viện của Tổng Hội Phật Giáo Pháp
Giới vùng Tây Bắc Thái Bình Dương
như Tu Viện Kim Phong Thiền Tự (Gold Summit
Monastery); Tu Viện Tuyết Sơn (Snow Mountain Monastery)
tại Skykomish, và
Tu Viện Kim Phật (Gold Buddha Monastery) tại
Vancouver, B.C.
|