![]() ![]() |
Vietnamese|English Mười
Thái Ðộ Tất Yếu Khi Bắt Ðầu Tu Hành Sau
đây là mười công-hạnh cần phải thực tập khi bắt đầu tu hành
theo phương pháp Kinh Hoa Nghiêm.
Mười công.hạnh này phát xuất từ mười tâm thái của bậc
Thập Tín. 1.
Tao
Khổ Năng Nhẫn. Gặp
chuyện rắc rối, đau khổ, bức bách, chúng ta hãy:
.
tách mình ra khỏi hoàn cảnh ấy; dùng lý trí để quán sát
nhân duyên của việc ấy mà không phê phán, lên án, bình luận
(tu lý). .
đừng biện hộ cho mình; đừng tìm lý do để chứng minh
rằng mình đúng (tu Ðạo). .
Tập nhẫn nại, tập tha thứ, khoan dung. 2.
Thân
cận thiện hữu. Chúng
ta nên gần gũi bạn tốt, bậc Thiện-tri-thức, bậc trí huệ, để
học hỏi gương lành. Bạn tốt là người:
.
giúp mình phát chí tu hành, phát tâm Bồ-đề.
.
khuyến khích mình lúc mình giải đãi, biếng nhác, hay bế
tắc.
.
bàn luận. chỉ bày. nêu ra điều sai lạc. lỗi lầm của mình.
.
là tấm gương đức hạnh, mẫu mực tốt để mình noi
theo.
.
có trí huệ sáng suốt, thấu rõ đạo lý, thật sự dụng
công tu hành, nên có thể chỉ điểm
mình tu hành.
.
có chánh tín đối với Tam bảo, biết cung kính bậc trưởng
thượng, biết tôn trọng chân lý. . có hành vi khiêm cung, không cống cao ngã mạn, sẵn sàng phục vụ mọi người. 3.
Cúng
dường chư Phật. Chư
Phật là ruộng phước vĩ đại nhất. Cúng dường chư Phật không
những sẽ được phước báo vô lượng mà còn diệt trừ phiền
não, sanh khởi trí huệ, thay đổi nghiệp duyên, trợ duyên đắc
Ðạo. a.
Tùy
theo tâm trạng, động cơ của mình lúc cúng dường mà sẽ được
kết quả tương ưng:
"Giống như tấm gương
sáng,
Tùy hình hiện ảnh tượng,
Phật phước điền cũng
vậy,
Tùy
tâm hoạch chúng báo." b.
tất cả phiền não, hoạn nạn, ác nghiệp của mình cũng được
tiêu trừ nhờ cúng dường chư Phật:
"Như
thuốc A-già-đà.
Trị lành mọi thứ độc,
Phật phước điền cũng
vậy,
Diệt sạch phiền não
hoạn." c.
Cúng dường chư Phật còn có thể giúp chúng ta dứt được
nghiệp hữu-vi, chứng đắc quả Vô-lậu:
"Ví như đại hỏa
khởi,
(hỏa thiêu tới tam Thiên)
Thiêu hết mọi vật tượng,
Phật phước điền cũng
vậy,
Thiêu
hết thứ hữu-vi." Muốn
làm được những việc như trên, thì khi cúng dường chúng ta
phải tập có thái độ như sau:
.
không cầu mong lợi lạc cho chính mình,
.
không cầu cạnh những thứ thế tục, nhỏ bé hẹp hòi, không
cầu quả báo,
.
xem việc cúng dường là bổn phận,
.
quán tưởng cúng dường một đức Phật là đồng thời cúng
dường mười phương tất cả đức Phật, . tận tình đem hết năng lực ra cúng dường, không sợ "hết tiền hết của" ; đó mới gọi là thành tâm. 4.
Tu tập thiện căn. "Thiện
căn" tức là gốc lành. Gốc lành thì ở trong tâm. Muốn
trồng gốc lành thì phải dùng hành động thực tiễn bên ngoài.
Ðối tượng để trau giồi thiện căn, theo phẩm Hiền Thủ,
gồm có:
.
Lợi lạc chúng sanh: Bất cứ việc gì mình làm mà đem
lại ích lợi cho chúng sanh thì tự nhiên gốc lành sẽ trỗi
dậy. Do đó phương pháp tu bố thí trì Giới, nhẫn nhục, phương
tiện, v.v... đều là cách đề vun bồi gốc lành.
.
Trang nghiêm quốc độ: Tức là làm cho hoàn cảnh xung quanh
được cải thiện, tốt đẹp, hòa bình. Chúng sanh và môi trường
là hai phạm trù không thể tách biệt. Do đó, khi độ chúng sanh,
mình phải đồng thời cải biến, trang nghiêm hoàn cảnh. Bằng
cách nào?
a. Thanh tịnh tự tâm. Tâm mình ra sao thì hoàn cảnh thế ấy
b. Hồi hướng phước báo
để trang nghiêm hoàn cảnh, quốc độ.
c. Tu những công hạnh
phục vụ, làm việc công ích. 5.
Chí cầu thắng Pháp. "
Thắng Pháp" là thứ pháp thù thắng đưa tới Niết-bàn, đạt
tới giải thoát. Không có chí cầu Pháp thì sẽ không có Pháp
tới tay. Lập
chí, do đó, là việc quan trọng bậc nhất lúc bắt đầu
tu. Không lập chí thì tình cảm, dục vọng, tham vọng, ích
kỷ sẽ dắt dẫn cuộc đời mình. Bởi thế,
.
Khi lập chí: đừng cầu mong gì cho mình cả. Viết ra giấy
để nhớ và ôn lại.
.
Khi tu hành: đừng để quả báo làm lu mờ chí hướng.
.
Khi gặp trắc trở: đừng quên chí nguyện lúc ban sơ.
.
Khi gặp thuận duyên: đừng để dục vọng, danh vọng, sung
sướng, quyền thế làm lạc
hướng đi. 6.
Tâm thường nhu hòa. "Nhu"
tức là không cang cường, không cứng đầu, cũng không đầy
dẫy thạnh kiến; mà là biết nhường biết nhịn, không coi ai là
kẻ thù. "Hòa"
tức là không nổi nóng, bộc tháo, không thích gây gỗ, không thích
tìm lỗi lầm của kẻ khác, không thích đấu lý, "Hòa"
có nghĩa là biết nhận lỗi mình, biết hợp tác với kẻ khác,
chấp nhận phê bình, lời lời ôn hòa. 7.
Từ bi thâm hậu. "Từ
bi thâm hậu" tức là có tấm lòng thương xót sâu xa đến
tất cả chúng sanh. Những tâm thái năn trở vạ giết chết lòng
từ bi là:
.
Giận dữ: Mình có hay nóng nảy chăng?
.
Oán ghét: "Ai là kẽ thù của ta?" Ai là kẻ đáng
ghét ?
.
Chỉ trích : Mình có thích nói xấu, nói sau lưng kẻ khác
chăng Cho
nên, chúng ta cần phải tập : 1. Ôn hòa, 2. Tha thứ và cảm
thông. 8.
Thâm tâm bình đảng. "Thâm
tâm" là tận đáy lòng mình, trong tâm can mình. "Bình đẳng"
là không có thành kiến, định kiến về người nào cả. Khi có
thành kiến về người nào, mình sẽ không có cách gì thấy được
chân tướng, nghiệp chướng, bãn tánh, nhân duyên của người
ấy. Thành kiến chỉ đưa tới quan điểm nông cạn nhỏ hẹp, và
sinh ra phiền não. Phải tập lắng nghe quan điểm của người khác.
Tránh nói chuyện thị phi, phê bình, chỉ trích kẻ khác. Tập
quan sát thái độ của mình để tránh phát khởi lòng kiêu
ngạo, cống cao. Ðừng cho mình là tiêu chuẩn, hơn hẳn tất cả
kẻ khác. 9.
Ái lạc Ðại-thừa. Hãy
vui thích với Pháp Ðại-thừa; suy tư về khả năng thành Phật
của mọi chúng sanh ; tập vui sướng khi thấy kẻ khác tu hành;
tập vui sướng khi thấy kẻ khác thành tựu, đắc quả, hay mới
bắt đầu phát tâm; tập vui sướng với chân lý, tin tưởng và
coi trọng chân lý, Phật Pháp. Ngoại trừ bổn phận với đời,
hãy tập thái độ đặt ưu tiên cho việc học hỏi chân lý và
tu trì, thực hành Phật Pháp. 10.
Cầu Phật trí huệ. "Cầu"
có nghĩa là đặt phương hướng cho đời mình nhắm vào sự phát
triển trí huệ, chứ không phải là cầu cạnh, mong muốn đạt
được cái gì. Mọi thứ mong muốn cho mình đều ngược với
tinh thần tu Ðạo, và chỉ đưa tới thất bại. "Cầu"
ở đây chính là xác định sự cống hiến đời mình cho việc
phát triển Nhất-thiết Trí, trí huệ của Phật ; do đó,
danh, lợi, tài, sắc, đều không phải là hướng đi và mục tiêu
của đời mình.
|