|
|
Vietnamese|English Ngữ
Lục Hòa
Thượng Tuyên Hóa
8.
Trí Huệ ·
Chí công vô
tư Chánh Pháp. Ích kỷ, tự lợi là tà pháp. ·
Làm thế nào
để diệt trừ tâm sân hận do vô minh sai khiến? Phải tu Pháp
môn Nhẫn Nhục Ba La Mật, tuyệt đối không nên khởi tâm nóng
giận. Ðây là việc quan trọng nhất. Nếu không khởi tâm nóng
giận thì sẽ phát sinh trí huệ. ·
Ðời Mạt
Pháp, người người đều phạm một lỗi làm chung là quá cao
ngạo, lấy tai thay mắt, nghe có gì hay thì liền chạy đuổi
theo. ·
Chúng ta,
những người tin Phật, chớ nên mê tín quá đáng, mà cần phải
dẹp bỏ mê tín. Mê tín là gì? Là tin bậy tin cuồng, tin tưởng
ngay những gì người khác vừa nói, tin một cách mê muội. ·
Tại sao chúng
sanh lại điên đảo? Vì nhận lầm vô minh là "ông chủ nhà,"
tống khứ trí huệ đi mất. Vô minh đưa ra mệnh lệnh:"cho
việc đúng là sai; cho việc sai là đúng." ·
Từ trong
Thiền-định, gạn lọc tâm tư, trừ bớt tham dục, khiến trí
huệ nẩy sinh. ·
Người thường
thích khởi tâm nóng giận đa số là người ngu si, vô minh nặng
nề, không một chút công phu hàm dưỡng. ·
Vọng
niệm là niệm hư dối, không chân không thật.
Người luôn khởi vọng tưởng điên đảo tức là người
tuy biết rõ việc đó là không đúng nhưng vẫn cứ cố làm,
lại còn xảo quyệt biện luận cho là đúng. ·
Nếu chư
vị thường xuyên hồi quang phản chiếu, thấy rõ tự tánh, thường
sanh Trí Huệ Bát Nhã, thì đó là tạo công. Ứng dụng Trí Huệ Bát Nhã mọi nơi mọi
chốn, biến hóa không cùng tận, mà không nhiễm trước, không
tạo những việc không thanh tịnh, đó là tạo
đức. ·
Thật ra,
Trí Huệ Bát Nhã của kẻ ngu si và người đại trí vốn không
khác biệt. Có sai khác là kẻ ngu thì không biết dùng trí huệ,
còn người trí thì biết vận dụng nó. Nếu
không chấp trước trong ngoài thì "đến" và "đi"
đều được thông dong tự tại, biết được mình từ đâu đến
và sẽ đi về đâu. "Ðến" có thể nói là "trở
về"--trở về lại thân tâm
của mình. "Ði" tức là đi đến Pháp Giới. ·
Nếu chư
vị chấp trước vào "có đến có đi, "thì sẽ bị chướng
ngại, không thể tự do. ·
Nếu có
"trí" thì chư vị sẽ giống như mặt trời, có
"huệ" thì chư vị sẽ tựa như vầng trăng. ·
Hy vọng
được khai ngộ hoặc hy vọng được thành Phật đều là những
vọng tưởng. Mọi người phải ghi nhớ: Chỉ cầu tu hành, không
cầu hy vọng hão huyền. ·
Nếu Bồ Tát
có thần thông mà không thị hiện, thì có thần thông để làm gì? Bồ
Tát dùng thần thông để giáo hóa chúng sanh, như dựng cây để
thấy hình, khiến chúng sanh tăng lòng tín ngưỡng. Như thế, được
lợi ích hai chiều. Ðó là pháp môn thiện xảo phương tiện. ·
Chư vị hãy
chú ý! Ma cũng hiện thần thông, khiến những người tham cầu
thần thông và không có Ðịnh-lực sa vào cạm bẫy, mất đi Ðạo-nghiệp,
trở thành quyến thuộc của ma. Về điểm này, mọi người đều
phải đặc biệt chú ý, không thể không cẩn thận! ·
Người nào
muốn có thần thông thì trước
hết phải xả bỏ muôn sự, chuyên tâm tham Thiền tịnh tọa. Ðến
khi công phu chín muồi thì tự nhiên có thần thông. Thần thông
không phải là thứ có thể tìm cầu ở bên ngoài, mà chỉ có
được khi nội tâm mình chứng đắc. ·
"Nhìn
xuyên suốt, xả bỏ, tự tại."
Nhìn xuyên suốt tức là
hiểu vấn đề một cách rõ ràng, thấu đáo.
Xả bỏ tức là giải
thoát. Chỉ khi đạt được giải thoát rồi thì mới có
sự tự tại chân chánh. ·
Học Phật
Pháp thì cần phải dùng trí huệ chứ không thể dùng tình cảm.
Dùng trí huệ để học Phật Pháp thì đó là Chánh Pháp. Dùng tình
cảm mà học Phật Pháp thì đó là Mạt Pháp. ·
Nhiều
người nghĩ rằng đời người là vui sướng. Kỳ thật, những
sự vui sướng ấy đều là giả dối. Sư vui sướng chân chánh
phải được tìm thấy từ trong tự tánh, chứ không phải đến
từ bên ngoài.
(còn
tiếp) |
|
|