![]() ![]() |
Danh Từ Phật Học - Phật Giáo Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật Tất
cả chúng ta đều muốn hiểu rỏ giáo lý của đạo
Phật. Ðể đạt được mong muốn ấy, trước hết, chúng
ta cần phải am hiểu về Ðức Phật. Trong quá khứ, Ðức
Phật đã từng trải qua ba A-tăng-kỳ (vô số) kiếp tu phước
và tu huệ, và cả trăm kiếp trồng nhân lành để có được
tướng mạo tốt đệp, trang nghiêm. Sau một thời gian dài
tu tập nhiều hạnh khác nhau, Ngài được thành Phật. "Buddha"
vốn là tiếng Phạn, nhưng khi đọc thì nghe giống như
từ ngữ "bu
da" ("bất đại," nghĩa là "không
lớn") của tiếng Trung Hoa. Phật thì không lớn hơn mà
cũng chẳng nhỏ thua con người; do đó, "không lớn không
nhỏ" tức là Phật! "Không
lớn" nghĩa là không cao ngạo, ngã mạn; và "không
nhỏ" tức là không tự ti mặc cảm, không cam chịu kém
cỏi hoặc nghĩ rằng mình là vô giá trị. Ðức Phật không
hề có những tư tưởng hoặc thái độ như thế. Ngài
"không lớn" (không cao siêu hơn chúng sanh) mà cũng
"không nhỏ" (không thấp kém thua chúng sanh); vì
thế, Ngài được xưng là "Phật." "Phật"nghĩa
là gì? Chúng ta học Phật, tin Phật, niệm Phật, nhưng
lại không hiểu ý nghĩa của chữ "Phật"-như
thế chẳng đáng cho chúng ta lấy làm an hận sao? "Phật"
có ba nghĩa là: bậc tự mình giác ngộ (tự giác), bậc làm
cho kẻ khác trở nên giác ngộ (giác tha), và bậc đã làm
tròn hạnh nguyện giác ngộ (giác hạnh viên mãn). Phật đã
làm xong ba loại giác này. Ngài đã tự giác ngộ, và đã
giúp cho chúng sanh được trở nên giác ngộ. Khi hoàn tất
mỹ mãn hạnh nguyện tự giác và giác tha tức là Ngài đã
"giác hạnh viên mãn"; do đó Ngài được thành
Phật. Ðức Phật là đấng "tam giác viên mãn, vạn đức
đầy đủ." Bậc
tự giác ngộ thì thuộc hàng Nhị Thừa, còn bậc giác
ngộ kẻ khác thì đang đi trên con đường Bồ Tát Ðạo.
Bậc làm tròn hạnh nguyện giác ngộ tức là bậc đã hoàn
thành trọn vẹn cả hai hạnh nguyện tự giác và giác tha,
và đó chính là một vị Phật đầy đủ vạn đức. Ngài
cũng chứng đắc được Ðại Viên Kính Trí, Bình Ðẳng Tánh
Trí, Diệu Quán Sát Trí, và Sở Thành Tác Trí. Ðức Phật
đã làm tròn ba hạnh nguyện giác ngộ và có được bốn
thứ trí huệ. Vì có đại trí đại huệ và quán triệt
mọi pháp thế gian cũng như xuất thế gian nên Ngài được
tôn xưng là "Phật". Sau
khi thành Phật. vì muốn mọi người đều được thành
Phật nên Ðức Phật tuyên thuyết giáo pháp. Giáo pháp
của Phật gồm có Tam Tạng và Mười Hai Bộ Kinh. Tam
Tạng tức là Kinh, Luật, Luận. Mười Hai Bộ là trường
hàng, trùng tụng, thọ ký, cô khởi, bất vấn tự
thuyết, nhân duyên, tỷ dụ, bổn sự, bổn sanh, phương
quảng, vị tằng hữu, và luận nghĩa. Mười Hai Bộ không
phải là những kinh điển nào khác. Mỗi một bộ kinh đều
có bao hàm Mười Hai Bộ này. Học
Phật Pháp, chúng ta cần phải nghiên cứu kinh điển. Kinh
điển chính là con đường--con đường dẫn tới sự thành
Phật. Nếu muốn thành Phật, chúng ta phải đi theo con đường
tu hành. Và, đó chính là nguyên do vì sao Ðức Phật tuyên
thuyết kinh điển, hình thành giáo lý đạo Phật. Ðức
Phật bảo A-Nan cùng đại chúng: "Sau khi Ta nhập
Niết-Bàn, tất cả chúng sanh, hoặc tiên thượng hay nhân
gian, được Xá-lợi của Ta mà vui mừng thương cảm, cung
kính lễ bái cúng dường, thời được vô lượng vô biên
công đức. Này
A-Nan! Nếu thấy Xá-lợi của Như-Lai thời là thấy Phật,
thấy Phật là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Tăng, thấy
Tăng là thấy Niết-Bàn. A-Nan
nên biết rằng do nhân duyên trên đây mà Tam Bảo thường
trụ không biến đổi, có thể làm chỗ quy y cho tất cả
chúng sanh." (Kinh Ðại Bát Niết-Bàn, Phẩm Di Giáo)
|