|
|
|
Vietnamese|English Mẹ Tôi Về Lại
Cội Nguồn Thích Diễn Thành Công
cha như núi Thái-sơn, Nghĩa
Mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một
lòng thờ Mẹ kính Cha, Cho
tròn chữ hiếu mới tròn đạo con. Từ
mẫu tôi tên Vương-Phượng-Tú, Pháp danh Đức-Huân, sinh
ngày 18 tháng 2 âm lịch năm 1903 tại Cổ-trúc, huyện
Nam-phong. Vì gia đình nghèo nên phải bán bà cho nhà họ Vương
để làm nô tỳ nên đổi qua họ Vương, đổi tên là Như-Ý;
còn họ gốc của bà thì không được rõ. Lúc 20 tuổi, bà
kết hôn làm vợ lẽ cho thân phụ tôi. Trước
kia bà tin theo Tiên-thiên-giáo. Ngày mồng một tháng giêng
âm lịch năm 1938, bà bắt đầu niệm Phật và ăn trường
trai. Tháng 9 năm 1943, bà quy y Tam-Bảo dưới sự chứng
minh của Ngài Hoài-Côn. Tháng 11 năm ấy, bà thọ Ưu-bà-di
Giới với Ngài Giảng-sư Quang-Dung. Tháng 7 năm 1946, tôi
thế phát xuất gia tại chùa Trường-Khanh ở Nam Xương thì
mẹ tôi cũng đến ở tại chùa để tu hành như một cư sĩ. Vào
tháng 2 năm 1968, tôi bị bắt lầm và bị giam. Lúc tôi
bị dẫn đi, mẹ tôi đưa tôi ra cửa, tươi cười như không
có gì xảy ra mà chỉ nói nhiều lần: “Con hãy giữ gìn
sức khỏe.” Đến
tháng 10 năm 1979, tôi được xét vô tội và được tha.
Trở về lại chùa thì tôi thấy mái hiên và vách tường
đã sụp đổ. Mẹ tôi lúc bấy giờ đã 77 tuổi, đang
cuốc đất bón phân vườn rau ở trước phòng của bà
ngay tại nơi mà trước kia là cửa chính của điện thờ
Phật. Gặp lại tôi sau 12 năm xa cách, mẹ tôi tỏ ra rất
ưu ái nhưng không khóc lóc hay tỏ vẻ vui mừng. Trước
đây 6 năm, bà còn có thể đi lại không phải chống
gậy, hoặc xâu kim dưới ánh đèn mà không đeo gương, và
tai còn nghe được những tiếng nhỏ. Nhưng dần dần bà
đi không được vững và đã bị nặng tai. Từ mùa thu năm
ngoái, bà không còn thấy được thức ăn nữa. Vậy mà bà
luôn luôn tỏ ra vui vẻ, không buồn lo vì tuổi già, an nhiên
tự tại trước lý vô thường của vạn vật. Mồng
3 tháng giêng năm nay, bà nằm liệt giường, không ăn
uống gì nữa. Ngày 17, bà không mở mắt được, hơi thở
đã yếu, môi mấp máy nhưng không ra tiếng. Qua ngày 18 hình
như cổ bà có đàm, và mạch hình như ngừng đập lúc 9
giờ sáng. Đến 9 giờ tối bà đòi uống nước và bác sĩ
khuyên nên cho bà ăn cháu với sâm. Hai
giờ sáng ngày 19, khi tôi kêu ba lần: “Me, Mẹ, Mẹ…”
thì mắt bà hé mở rồi nhắm lại, miệng cũng mở ra hai
lần, rồi thanh thản ra đi. Lúc ấy là 2 giờ 15 phút sáng
ngày 19 tháng giêng âm, và bà thọ 92 tuổi. Lúc rạng đông,
thân thể bà đã lạnh, duy đỉnh đầu còn ấm. Vì phải
đợi Ngài Giới-Huệ từ Giang-châu đến để làm lễ
Cầu-siêu nên đến 8 giờ tối mới thay y phục cho bà. Bàn
thờ được thiết trong phòng mẹ tôi vì không có nhà Vãng-sanh.
Vì không đem quan tài lên gác được nên phải đặt bà
ngồi trên một chiếc ghế tre trong tư thế kiết-già.
Suốt bảy ngày, gần 20 người đến hộ niệm danh hiệu
Phật trong một gian phòng nhỏ (2,5mx7m). Khí trời rất nóng
nực nhưng thân thể bà không có mùi hôi. Ngày 25, thi hài
bà được đặt vào áo quan để đem đi hỏa thiêu, và tôi
nhìn thấy bà như hãy còn sống. Nếu không sờ vào da
của bà thì không ai biết là bà đã ra đi. Được vậy là
vì mẹ tôi đã tin chắc rằng Phật A-Di-Đà sẽ tiếp độ
và bà sẽ được vãng sanh Cực-lạc. Trước kia khi thân
phụ tôi qua đời vào năm 1938, mẹ tôi đã bị xúc động
quá độ và một người thầy bói đã làm cho bà nghĩ
rằng bà bị ma ám, thỉnh thoảng bà nói lảm nhảm một mình.
Tuy vậy, mẹ tôi đã được vãng sanh vì bà đã không
ngớt niệm hồng danh Phật. Trong
suốt mười năm sau 1966, tuy rằng ngôi chùa đã bị phá
sập và thực phẩm bị cắt, mẹ tôi vẫn kiên trì ẩn náu
trong hai phòng và bếp còn lại, chỉ ăn rau cỏ, không ăn
thịt cũng không rời khỏi chùa. Cũng nên nhắc lại là trước
kia trong suốt 12 năm, mẹ tôi thường dùng cán cuốc hoặc
cán dao để gõ mõ. Sau khi bà chuyển về chùa Thọ-Xương,
bà luôn luôn đeo tràng hạt ở cổ, vừa lần tràng hạt
vừa niệm hồng danh Phật. Bài
điếu văn mẹ tôi như sau: Tay
gõ mõ vừa lần tràng hạt, Miệng
luôn niệm hồng danh Đức Phật, Để
cầu mong đạt thành Chánh-quả, Và
vãng sanh nơi miền Cực-lạc, Chùa
bị sập, không có thức ăn, Vẫn
kiên trì không rời đại tràng, Chấp
nhận ngọt bùi cùng cay đắng, Tâm
chí thành không hề lay chuyển, Nên
được quả Thanh-tịnh An-binh. Lại
có bài kệ rằng: Tôi
đảnh lễ ai được thấy nghe, Cầu
tất cả phát Bồ-đề tâm, Với
tín nguyện luôn niệm Phật danh, Để
vãng sanh nơi miền Cực-lạc. (Viết
năm 1994, tại chùa Thọ-Xương, huyện Nam-phong, tỉnh
Giang-tây, Trung- Quốc.) |