Rượu, tình dục, tiền tài và
lòng sân giận đã làm sa đọa vô số tín đồ Phật giáo
Rượu, tình, tiền, sân giận là
bốn tường vây kín;
Làm nhiều người mê muội bị mắc kẹt bên trong.
Nếu ai có thể nhảy ra khỏi bức tường này,
Sẽ tận hưởng cuộc sống trường sanh bất lão. (1)
Bài kệ này nói về ngũ dục của thế gian là Tài, Sắc, Danh, Thực ,Thùy, là
những thứ khiến cho con người bị điên đảo sống say, chết mộng, quá mê mờ
không biết quay về.
Ngoài ra còn có “Rượu, tình, tiền và sân giận" (tửu, sắc, tài,
khí). Những người thích rượu không ngừng nghĩ về việc uống rượu. Những
người khao khát sắc dục luôn nghĩ về sắc dục. Những người thèm muốn sự
giàu có luôn cố gắng nghĩ cách làm giàu. Những ai thích nóng giận thì
luôn mất bình tĩnh trong mọi vấn đề dù lớn hay nhỏ. Bốn điều này giống
như bốn bức tường vây kín người ta lại (tứ đổ tường), do đó nói:
“Làm nhiều người mê muội bị mắc kẹt bên trong” . Không thể nào
biết được có bao nhiêu người sống bên trong những bức tường đó. “Nếu
ai có thể nhảy ra khỏi bức tường này” , nếu một người có thể kiềm
chế không uống rượu, không tham sắc, không tham tiền, và không nóng
giận, thì "sẽ tận hưởng cuộc sống trường sanh bất lão". Nếu quý
vị không bị dao động bởi rượu, tình dục, tiền bạc, hay nóng giận, quý vị
chắc chắn sẽ sống trường thọ.
Mặc dù đạo Phật dạy chúng ta không
nên chấp vào tuổi thọ (vô thọ giả tướng), tuy nhiên nói về tuổi thọ thì
cần nên không nóng giận, không uống rượu hay dùng các độc tố (ma túy),
và cũng không ham mê tình dục hoặc tiền bạc, tài sản. Được như vậy thì
xem như quý vị có thể kiểm soát được tuổi thọ của mình. Nếu quý vị muốn
sống lâu hơn một chút, thì quý vị có thể sống lâu thêm một chút. Nếu quý
vị không muốn sống quá già , thì quý vị có thể đi tái sanh bất kỳ lúc
nào mình muốn. Quý vị tự do và tự tại. Đây thực sự là tự tại. Tự tại có
nghĩa là quý vị luôn nắm quyền kiểm soát (tự tại), và không bị điều khác
chi phối (tha tại). Thế nào là bị chi phối bởi thứ khác (tha tại)? Nếu
quý vị luôn có những vọng tưởng, đó là bị thứ khác làm chủ (tha tại).
Thế nào là tự tại. Nếu quý vị không có vọng tưởng, đó là tự mình làm chủ
(tự tại). Nếu muốn trở thành Bồ Tát Quán Tự Tại [Quán Âm Bồ Tát], quý vị
không được có vọng tưởng. Khi quý vị phá tan vọng tưởng và các chấp
trước thì đó là tự làm chủ (tự tại); đó là Bồ Tát Quán Tự Tại. Đó cũng
là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách." [Bát Nhã Tâm
Kinh].
Rượu, sắc dục, tiền tài và sân giận
đã làm sa đọa vô số Phật tử. Tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền tài, sắc
dục, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ) cũng đã hủy hoại tương lai của vô
số những người có tiềm năng thành chư thánh hiền. Tuy vậy con người vẫn
chưa thức tỉnh. Họ vẫn tiếp tục lối sống say chết mộng, mê mờ không biết
làm thế nào để quay lại. Thật là ngu si, thật là đáng thương hại! Đó là
lý do tại sao khi còn trẻ, tôi coi Tài, sắc, danh, thực, thùy là cực kỳ
ô uế, như phân hoặc bụi bẩn. Tôi coi rượu, sắc dục, tiền tài, và nóng
giận như mọi thứ bên ngoài không liên quan gì với thân, tâm hoặc tính
mạng của tôi. Tôi bắt đầu tìm kiếm một phương cách rời khỏi ngũ dục và
nhảy ra ngoài bốn bức tường. Đó là lúc tôi quyết định xuất gia.
Sau khi xuất gia, tôi muốn giúp
người, nên tôi đã dùng đến Chú Đại Bi, pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn (2) và
Chú Lăng Nghiêm để cứu mạng người. Tôi đã cứu cho nhiều người nhưng khi
làm việc đó tôi đã gây hấn với nhiều yêu ma quỷ quái. Một số yêu ma quỷ
quái đến từ cõi trời, một số yêu ma quỷ quái từ cõi nhân gian, cũng có
một số là thủy quái sống dưới nước. Tại vì tôi đã xúc phạm với khá nhiều
các loài thiên ma ngoại đạo, các yêu tinh trên núi, thủy quái sông biển
v.v. nên tôi suýt bị chết chìm khi có lần đi tàu từ Thiên Tân tới Thượng
Hải. Tôi nhớ là chuyến đi thường chỉ kéo dài độ ba hay bốn ngày thôi (đó
là cách đây 40 năm về trước.) Nhưng chuyến tàu tôi đi lần đó lênh đênh
trên biển hơn nửa tháng. Tất cả thực phẩm và nước uống trên tàu hầu như
đã cạn nhưng con tàu cứ chạy vòng tròn trên vùng biển đen mênh mông. Các
máy móc trên tàu đều không hoạt động, và không có cách nào khác để đi
đến bờ. Trên tàu có mấy trăm hành khách, ai cũng đều ói mửa. Khi con tàu
chồm lên phía trước, mũi tàu vươn cao lên trời hàng mấy thước. Khi con
tàu chúi xuống, nó rơi xuống cũng mấy thước, con tàu cứ chúi lên nhào
xuống trên biển đen khiến nó gần như muốn lật. Vào thời điểm đó, niệm
chú Đại Bi cũng không linh nghiệm và niệm chú Lăng Nghiêm cũng không
linh nghiệm. Tôi nôn ói ra hết tất cả những gì trong bao tử và nằm liệt
trên sàn tàu, không tài nào cử động được. Tôi biết con tàu không chạy
đuợc vì các thủy quái đang chiến đấu với tôi, chúng muốn lật con tàu và
nhấn chìm tôi. Tôi ói ra hết tất cả, ngay cả mật, và tôi kiệt sức. Lúc
đó tôi nghĩ đến việc tự nhảy xuống biển để những người khác không bị
liên lụy vì tôi. Nhưng tôi còn một niềm hy vọng: Tôi cầu nguyện với Quán
Thế Âm Bồ Tát.
Tôi nói, "Bồ Tát Quán Âm, từ khi
con ra đời con luôn muốn làm Phật sự. Nếu con có thể giúp ích cho Phật
Pháp xin Ngài hãy vươn tay thánh làm dịu đi mặt biển và hướng dẫn con
thuyền về đến Thượng Hải. Nếu Ngài không thể đưa bàn tay thánh cứu con,
thì con sẽ nhảy xuống biển để mọi người không phải mất mạng vì con. Con
sẵn sàng chấp nhận quả báo của mình.”
Khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì quả
nhiên sóng to gió lớn dịu xuống. Sau hơn mười bốn ngày chiếc tàu cuối
cùng đã đến được Thượng Hải (3). Nếu còn lênh đênh trên biển thêm một
vài ngày nữa, người ta đói quá rất có thể phải ăn thịt nhau và hậu quả
thật không thể lường được . Đó là những thứ khó khăn phiền hà tôi trải
qua khi can thiệp vào các vấn đề của người khác và cố gắng giúp đỡ họ.
Từ đó trở đi, sau khi tôi đến Hương Cảng (Hồng Kông), tôi không dám can
thiệp quá nhiều vào chuyện của kẻ khác. Ngay cả bây giờ tôi cũng không
can dự quá nhiều. Nếu người ta bị bệnh và tôi có thể giúp cho họ thì tôi
âm thầm giúp. Nếu tôi không thể giúp được, tôi cũng không thể làm gì
hơn.
Bây giờ nghĩ lại thời tôi còn trẻ, tôi thấy mình không biết cách bảo vệ
mình, và tôi không biết vũ trụ rộng lớn bao la như thế nào, nên tôi đã
xúc phạm vô số sơn yêu thủy quái. Hôm nay tôi nói với quý vị điều này,
hy vọng qúy vị sẽ không giống như tôi can thiệp vào các vấn đề của người
khác quá nhiều.
Ghi chú của ban Phiên Dịch
Việt Ngữ VPTT:
(1) Nguyên văn Hoa ngữ của bài
kệ:
酒色財氣四堵牆
許多迷人裏邊藏
有人跳出牆兒外
就是長生不老王
Tửu sắc tài khí tứ đổ tường
Hứa đa mê nhân lí biên tàng
Hữu nhân khiêu xuất tường nhi
ngoại
Tựu thị trường sanh bất lão
vương.
(2) Pháp 42 Thủ Nhãn là Pháp Môn
không được tuỳ
tiện tự truyền hay tự học. Trong bài
http://www.drbachinese.org/vbs/publish/469/vbs469p023.pdf
và
http://www.dharmasite.net/VanChungNhatTamVanPhatThanh.htm
có nhắc những lưu ý của Hòa Thượng:
Thông
báo được công bố ngày 16 tháng 8 năm 2006 của Văn
Phòng
Quản
Trị
Vạn Phật Thánh Thành:
Bất cứ khi nào Hòa thượng Tuyên Hóa truyền pháp
42
Thủ
Nhãn,
Ngài luôn nhấn mạnh “Bất cứ ai truyền pháp này mà không có sự chấp thuận
của tôi sẽ gặp
ma
chướng.”
(1). Trước khi nhập Niết bàn, Ngài đã đặc biệt huấn
thị
vị
trụ trì của Vạn Phật Thánh Thành (Pháp sư Hằng
Luật)
như sau: “Đừng để pháp
môn Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn
này diệt tận. Hãy tiếp tục truyền lại cho các thế hệ sau. Việc truyền
pháp
này
phải được tiến hành trước tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt (ở
Phật Điện chính của Vạn Phật Thánh Thành)."
(2)
(1)
Nguyên văn Hoa ngữ:
「若未經我(老和尚)認可授權, 而私自傳授此法門者,將會有魔障發生。」-
"Nhược vị kinh ngã (Lão Hoà Thượng) nhận khả thọ quyền, nhi tư
tự truyền thọ thử pháp môn giả, tương hội hữu ma chướng phát
sinh."
(2)
Nguyên văn Hoa ngữ:「四十二手眼法門不要斷了,要繼續傳下去,要在(萬佛聖城)觀音殿的千手千眼觀世音菩薩像前傳。」-
"Tứ
thập nhị thủ nhãn pháp môn bất yếu đoạn liễu, yếu kế tục
truyền hã khứ, yếu tại (Vạn Phật Thánh Thành) Quán Âm Điện đích
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát tượng tiền truyền. "