Nhất Tâm Đảnh Lễ Vạn Phật Thánh Thành

Tuyển Tập Nhật Ký và Thư Từ

Hằng Thật và Hằng Triều

Quyển 2

 

Nguyên bàn Anh ngữ:

One Heart Bowing

A Collection of Journals and Letters

by Heng Sure Ph.D. and Heng Ch’au Ph.D.

Published by:

Buddhist Text Translation Society

1777 Murchison Drive, Burlingame, CA 94010-4504

© 2007 Buddhist Text Translation Society

Dharma Realm Buddhist University

Dharma Realm Buddhist Association

First edition 2007

  Hình ảnh

Welcome Dharma Master Heng Sure and Dharma Master Heng Chau - 11/1979

Các bài nói chuyện trong buổi lễ chào đón Thầy Hằng Thật và Thầy Hằng Triều về đến VPTT (11/1979)

 

Mục lục

Lời nói đầu

Tiếng Vang Im Lặng

Từ chối công việc được trả lương cao để giữ sự chân thật

Ba kho báu quý giá của tôi

Máy ghi âm nhỏ

Những người khác thì thấy chúng tôi là ma quỷ

Nó chỉ là sự khởi đầu thành kẻ giết người

Bữa ăn trưa có gì?

Điều đó trở nên khó tìm

Hai con gà trống gáy lẫn nhau

Dâu tây hay Chư Phật?

Không có những công việc học tập nền tảng thì chẳng có lễ tốt nghiệp

Anh ta giữ lấy đám trẻ nhỏ
Thầy chỉ cho ta một lối thoát

Đến thời hạn phải hoàn thành rồi, em ơi!

Ông ấy là một người tốt, tử tế, ngay thẳng và sợ Phật
Từ chối một chút thỏa mãn cho cơ thể mình

Quái sư

Chỉ đi từng bước một

Tôi không quan trọng

Thay đổi thật sự diễn ra ở trong người làm vườn

Hãy tìm hiểu thử ngay bây giờ, trước khi chết

Hãy để cuộc đấu tranh bắt đầu

Trái đất được tạo ra để ăn thịt người

Tâm nhàn rỗi sân chơi của ma quỷ

Chư Phật đang đến, Phật - bơ

Không ăn bữa trưa quá no

Mỗi ngày là sự khác biệt và không thể đoán trước

Việc ngủ gật lúc ngồi thiền sẽ từ từ biến mất đi
Mạng sống của chúng ta thật mong manh
Đã giúp tôi vượt qua lúc khó khăn
Đá là đá và nước là nước

m một người buông bỏ đưa ta tiếp xúc gần hơn

Sẽ phải lạy rất nhiều thì mới thấy được cái thấy đó

Hãy nói như thể đang ở giây phút cuối cùng của cuộc đời

Trong chiếc hồ đang dần cạn nước

Thực hành ngay; Phật Pháp vi diệu

Để quan sát, lắng nghe và noi gương một vị Thầy

Đạo Phật là lời dạy của chúng sanh

Người bảo vệ đức tin

Có tâm niệm nào trong mười lạy đó không?

 

 

Tháng 8, 1977

 

Tôi không thích những màn cửa mới này

Bà có muốn bản thông cáo của chúng tôi không?

Sự chú tâm của Thầy ấy thật hoàn toàn

Thế giới trong thế giới, quốc gia trong quốc gia
Một con người khác của thầy đang hé lộ ra ngoài

Tôi không tìm cầu gì cả

Làm thế nào mà có quá nhiều chuyện xảy ra như thế!

Đó là một sự sắp xếp lý tưởng cho việc tu hành

Căn phòng sống động với những tiếng cười và sự hài hước

Rốt cuộc ta không phải là người Thầy tệ lắm

Họ không tìm kiếm tiền lương và tiện nghi

Ít nhất 3.000 tuổi

Thành thật mà nói, tôi hơi lo lắng

Thay bộ đồ hiệu Levis bằng áo tràng và y giới

Con khỉ trong tâm

Thức dậy lúc 3 giờ 45 sáng và bắt đầu một ngày mới

Cái nào tht s là quý v?

Ngay lúc tôi động niệm

Mặc kệ gió

Nó đã có trong lịch trình … Chỉ là tôi đã quên mất

Ông đã uống cái thương hiệu!

Vài con ngựa, hai con lừa, và một con chồn hôi

Những thứ đó trói buộc tôi vào cái bản ngã của mình

Để đưa chúng sanh tới bờ bên kia

Những trạng thái đau khổ và bệnh tật sanh khởi và biến mất cùng với ý niệm của tôi

Chúng tôi đã ở đây một giờ

Chúng ta sẽ chờ xem

Ép đẩy giác ngộ ra khỏi phiền não

Giống như băng và nước

Hòa luyện ánh sáng và gởi ánh sáng ra lại

Thành thật và trong sạch 

Con có gì để nói không?

Ông vn còn s dng thế gian

Quý Thầy đang đi vào ngõ cụt

Luật cấm tu hành

Bữa ăn trưa và các vật dụng

Tôi sẽ ngồi cả ngày để đọc quyển sách đó

Chẳng có gì giới hạn

Chúng tôi tán thán danh hiệu Chúa mỗi ngày

Ngay cả khi nghỉ ngơi, cũng cần phải cẩn thận

Tất nhiên là không; đừng ngớ ngẩn như thế

Những thói quen xấu có thể cho cảm giác khá thoải mái

Những con chuột và con khỉ đang bị thí nghiệm, được bổ sung thêm môn toán học

Để tới một nơi nào đó mà tôi có thể chưa có kinh nghiệm qua 

Mười thứ tâm

Tránh sự chặn đứng và phiền nhiễu

Hãy giữ Trung Đạo! Nhanh lên!

Vậy thì tâm nằm ở đâu?

Đào xới lên những phần xấu xa

Bị nghi ngờ về “trụ”

Chúng tôi nhìn thấy các hình dạng giống nhau trong những đám mây và trong bóng tối

Skhơi dậy của nguồn năng lượng này có thể có nhiều cách để thoát ra
Một chiếc xe để giúp đi về phía trước

Thoát khỏi ông ba bị

Trước khi mặt trời lên

 

 

Tháng 9, 1977

 

Trong một sứ mạng hòa bình

Loại bố thí tôi làm là làm trong thầm lặng

Có hơn 84.000 tấm cạc tông Phật Pháp

Nước Mỹ sẽ thực hành lễ này - Lễ Vu Lan

Giống như viên đá bị đánh xuống bằng tay

Một lý tưởng được hiểu một cách rất tệ

Lạy trên mây

Trái dưa này đã chín chưa?

Dạ, cháu không sợ!

Người tu hành thì nỗ lực dụng công trong mọi lúc

Vài thứ không thể đo đếm

Sức mạnh của nguyện lực

Thay đổi theo những cách tôi không hiểu được

Bắt đầu từ lúc này và không bao giờ ngừng nghỉ

Cố gắng hết sức để không tạo thêm nữa

Khi một người chân thật tu hành

Lâu xa hơn tôi ký ức thâm sâu nhất của tôi

Một sức mạnh lớn hơn cả tình yêu thương

Lễ siêu độ tổ tiên

Mô hình của một người hoàn hảo

Bồ đề đạo tràng của chính mình ở trên đường

Đừng lay chuyển vì bất kỳ thứ gì

Một pháp thân thiết với tôi

Việc đập búa và kéo cưa bắt đầu

Việc tốt không rời cửa trước

Nhiều người đã hoàn toàn bỏ rượu bia

Chúng ta sẽ đi đâu?

Một người đàn ông điên xuất hiện bên kia đường xa lộ

Chờ cho hai bàn tay từ từ rơi ra

Thời tiết là một chúng sanh

Cầu chúc các thầy bình an!

Chỉ bằng cách cố gắng

Một ngôi sao băng giải mê

Giữa hồ nước âm tính

Tôi chắc chắn đã nói chuyện với Hòa Thượng

Những người trẻ tiếp thu như phép mầu

Bảo châu từ lửa

Dừng nó lại tại những cánh cửa và quay nó lại

Bệnh tan biến

Đừng tìm kiếm kết quả

Phạm quy củ, bể kiếng

Và bạn sẽ không tái sinh

Miệng và môi chúng tôi lại khô nữa

Trong một khoảnh khắc tôi có thể thấy suốt con đường

Việc lạy đã khiến cơn đau biến mất, tôi đoán thế!

Hiệp Hội Bảo Vệ Nhẫn

Thành công phụ thuộc vào sự thành tâm

Vị khổ vui là những gì ngươi nhận được

Chúng ta lại một lần nữa phải ở trên mảnh đất hay có trộm cắp

Những điều căn bản đơn giản vẫn giá trị nhất

Tâm gặp tập khí

Trẻ em từ nhận thức có sẵn nhận ra sự thật này

Chậm lại, nếu không ngươi sẽ nổ

Con đường thế gian không đi đến đâu

 

 

Tháng 10, 1977

Ông chủ đang khuất phục, nhưng không phải là không có sự kháng cự

Đã đến lúc để nhúng ướt cả người

Nếu có thể đoạn diệt dục niệm, con có thể tiến lên

Làm bất cứ điều gì để phá hoại sự lễ lạy

Việc duy trì là ngay nơi đó

Không phải vậy, bây giờ hãy xem ta

Tất cả được thực hiện như thể đang ở trên sân khấu

Gần đây gặp một số người lạ

Thực hành dựa trên những đạo lý chân thật

May thay, nó chỉ có một

Gió lạnh làm tôi xoay chuyển

Bắt gặp trái nho khô và được dạy cho bài học

Sợ không gian rộng mở phía trước

Luôn luôn bị săn và luôn làm kẻ đi săn

Như thế là anh bị dẫn dắt để tin tưởng

Chuyện rắc rối lớn trở thành nhỏ

Điều đó xảy ra một cách tự nhiên, từ trái tim

Đừng sợ chúng tôi

Con có thể không bao giờ thành Phật!

Đi chậm và không bao giờ tức giận

Vũ trụ là do tâm tạo

Làm lại thành thép kim cang

Anh có nghe cái tên “điên rồ” này sẽ làm gì không?

Phật Pháp và Pháp của trẻ em

Vì Pháp Quên Mình

Trang bị cần thiết tốt nhất và đáng tin cậy nhất

Sự đoạn trừ sẽ sâu xa hơn

Tam muội không có thời gian

Không có cảnh giới nào là thật
Chỉ làm điều đúng đắn

Thêm rung động tiêu cực

Thông minh thì cản trở

10 pháp thực hành để làm sạch tâm ý

Bạn phải đóng chặt cửa

Phải giữ thanh kiếm của mình hoạt động

Mưới sáu ánh sáng khác nhau đang chiếu sáng

Từ bỏ những phản ứng đã huân tập

Nơi nào thì bùn kết thúc và hoa sen bắt đầu?

Mọi thứ nên như vậy
 

* Các ghi chú trong bản dịch là của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thánh Thành nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn.

 

 

Lời nói đầu

Ba bước, một lạy - ba bước dọc theo cạnh xa lộ, rồi lạy một lạy xuống đất; đầu gối, cùi chỏ, bàn tay, trán đều chạm đất, rồi đứng lên, chắp tay, bước thêm ba bước, rồi lại lạy thêm một lạy. Hết giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác, trong hai năm rưỡi, họ hành hương lễ lạy theo cách đó. Tại Trung Hoa, những Phật tử thành tâm có những lúc thực hành công việc khó khăn có tính cách cầu nguyện là ba bước một lạy trong vài trăm thước cuối cùng trước khi đến một nơi thánh địa. Nhưng đây là California, và hai tăng sĩ hành hương này là người Mỹ trẻ tuổi. Mặc áo tràng và giới y, không mang tiền bạc, không trang bị gì ngoài kỷ luật và lòng thành kính, họ đã đi bộ và lạy 800 dặm (1) dọc theo vệ đường nhỏ hẹp của Xa Lộ Ven Biển Thái Bình Dương. Mỗi ngày tiến triển một dặm, họ lạy từ trung tâm thành phố Los Angeles về phía bắc dọc theo bờ biển, xuyên qua Thành phố Santa Barbara và dọc theo vùng Big Sur, xuyên qua thành phố San Francisco và qua cầu Cựu Kim Sơn, rồi lạy xa thêm 100 dặm (2) về phía Bắc để đến Vạn Phật Thánh Thành, một trung tâm giáo dục và tôn giáo vừa được thành lập taị quận hạt Mendocino. Khi lễ lạy, họ cầu nguyện thế giới không còn thiên tai, tai họa và chiến tranh.

Vị tăng sĩ tịnh khẩu dẫn đầu là Thầy Hằng Thật. Thầy từ thành phố Toledo, tiểu bang Ohio, vào năm 1974 Thầy đã tự tìm đường đến Tu Viện Kim Sơn Thiền Tự tại San Francisco. Tại đó trên một đường phố cạnh khu Mission, có một cao tăng Trung hoa là Hòa Thượng Tuyên Hóa, đang sống thầm lặng trong khi thực hiện công việc tiên phong của ngài là gieo trồng lại truyền thống tăng đoàn Phật Giáo tại phương Tây. Nhờ đức hạnh và trí tuệ của Hòa Thượng làm cảm động, Thầy Hằng Thật đã gia nhập với những người trẻ tuổi Hoa Kỳ khác thọ nhận pháp danh và toàn giới của một tăng sĩ Phật Giáo.

Trong thời gian học hỏi tiếp theo, Thầy Hằng Thật được đọc về cuộc hành hương lễ lạy do Hòa Thượng Hư Vân thực hiện vào thập niên 1880, ngài là một tăng sĩ Trung hoa đặc biệt nhất trong thế hệ của ngài. Hòa Thượng Hư Vân đã lạy mỗi ba bước qua suốt bề rộng của nước Trung Hoa; và mất đến năm năm. Thầy Hằng Thật biết rằng Hòa Thượng Hư Vân là Tổ Sư của dòng thiền Quy Ngưỡng của Thiền tông, và Thầy biết Hòa Thượng trụ trì và cũng là Thầy của Thầy, tức là Hòa Thượng Tuyên Hóa, là vị tổ sư hiện tại, đã nhận được sự truyền pháp từ Hòa Thượng Hư Vân vào năm 1949. Do sự liên hệ gần gũi này gây hứng khởi, Thầy Hằng Thật đã xin Hòa Thượng Tuyên Hóa để được thực hiện chuyến đi hành hương ba bước một lạy. Hòa Thượng chấp thuận nhưng lại nói "Hãy chờ đợi!". Thầy Hằng Thật phải chờ đợi một năm. Hòa Thượng Tuyên Hóa cho biết điều mà Thầy Hằng Thật cần là một người đồng hành và là người hộ pháp thích hợp. Đó là Thầy Hằng Triều. Vốn quê quán từ thành phố Appleton, tiểu bang Wisconsin, Thầy Hằng Triều đã đến thành phố Berkeley để học võ thuật, và đã trở nên một người tài giỏi về nhiều môn phái võ thuật. Khi người thầy dạy Thái Cực Quyền cuối cùng có nói với Thầy là "Thiền định cao hơn bất cứ võ thuật nào.", Thầy Hằng Triều đã qua bên kia Vịnh để theo học tại Tu Viện Kim Sơn Thánh Tự. Khi vừa nghe lời nguyện của Thầy Hằng Thật, Thầy liền hỏi là Thầy có thể đi theo để cùng lễ lạy được chăng. Và chỉ trong vòng một tuần, Thầy Hằng Triều thọ giới Sa Di và phát nguyện chính thức cùng đi lễ lạy bên cạnh Thầy Hằng Thật, đồng thời phụ trách các công việc như nấu nướng, dọn dẹp, dựng lều, và tiếp chuyện với những người xa lạ.

Như vậy cuộc đi hành hương bắt đầu. Hòa Thượng Tuyên Hóa tiễn đưa họ khi họ rời Tu Viện Kim Luân ở Thành Phố Los Angeles vào ngày 7 Tháng 5, năm 1977. Đối với Thầy Hằng Triều, là một nhà võ thuật, Hòa Thượng nói: "Con không được dùng võ thuật trong chuyến hành hương. Lời nguyện của Thầy Hằng Thật là mong muốn chấm dứt những thiên tai, tai họa và chiến tranh; như thế làm sao con có thể tự mình dùng bạo lực đuợc? Nếu một trong hai con đấu tranh, hay thậm chí đắm chìm trong cơn giận, các con sẽ không còn là những môn đệ của ta." Về việc bảo vệ tránh những nguy hiểm trên đường hành hương, Hòa Thượng Tuyên Hóa chỉ dẫn họ hãy thực hành bốn vô lượng tâm của Bồ Tát là Từ, Bi, Hỷ và Xả. Đó hẳn nhiên không phải là lần cuối cùng mà hai vị tăng sĩ lễ lạy cần đến lời khuyên của Thầy của họ.

Trên đường, hai người hành hương nghiêm ngặt tuân theo kỷ luật tu viện của họ - mỗi ngày chỉ ăn một bữa chay; không vào trong nhà, ngủ ngồi trong chiếc xe băng rộng Plymouth đời 1956 cũ kỹ được dùng làm nơi trú ngụ của họ. Vào những buổi tối sau một ngày lễ lạy, họ học Kinh Hoa Nghiêm qua ánh sáng của ngọn đèn dầu. Họ dịch những đoạn kinh sang tiếng Anh và cố gắng áp dụng đạo lý trong Kinh với những kinh nghiệm ngoài đường hằng ngày của họ, như thầy của họ đã khuyến khích họ làm. Những tăng sĩ này bảo vệ sự tập trung tâm trí của họ bằng cách tránh đọc báo, bằng cách tắt máy radio, và bằng cách giữ thời biểu thiền tập nghiêm ngặt. Thầy Hằng Thật giữ nguyện tịnh khẩu trong suốt chuyến hành trình, vì vậy trả lời những câu hỏi của nhiều người gặp trên đường trở thành công việc của Thầy Hằng Triều. Thỉnh thoảng có những người đến thăm với thái độ thù nghịch, một số người đe dọa dùng bạo lực, nhưng đa số thì hiếu kỳ, và thường những kẻ hiếu kỳ lại trở thành những người hộ pháp cho các tăng sĩ này, mang đến thức ăn và những đồ dùng cho đến khi những tăng sĩ này lễ lạy ra khỏi khu vực.

Tất cả những điều quan trọng xảy ra trên xa lộ - những lỗi lầm và trưởng thành, những thử thách và những cuộc gặp gỡ đáng chú ý, những nguy hiểm và những thâm giải, việc nỗ lực dụng công bằng thân thể và tâm trí - những người hành hương đều báo cáo lại trong những bức thư gởi đến Hòa Thượng Tuyên Hóa. Ngài đích thân trả lời bằng cách thỉnh thoảng đến thăm viếng họ, cho họ những hướng dẫn tâm linh vô giá, những khiển trách, những câu chuyện vui, và những khai thị vừa cao siêu vừa bình phàm vào đúng lúc. Những bức thư đó là nội dung của quyển sách này.

Những bức thư này viết ra không có ý niệm là để xuất bản, mà chỉ là phương tiện hai vị tăng dùng để cố gắng chân thành cởi mở nói ra những kinh nghiệm trên đường của họ. Như vậy, những bức thư này lưu giữ lại một ký sự không tô vẽ về một cuộc hành trình tâm linh xác thực

_____________

Ghi chú:

(1) khoảng 1300 Km

(2) khoảng 160km

 

 

Hằng Triều - 11 tháng Bảy 11, 1977

Từ chối công việc được trả lương cao để giữ sự chân thật
 


Một cuộc phỏng vấn.

Hỏi: Điều gì thật sự đã đưa ông đến với Phật giáo?
Trả lời: Điều tôi mong muốn làm nhất có thể để giúp chấm dứt đau khổ của tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi.

Hỏi: Và cuộc hành hương lễ lạy này thì sao? Nó phù hợp với điều đó như thế nào?
Trả lời: À, lý do thật sự cho chuyến lạy này và trở thành một nhà sư - lý do nòng cốt - là để đền ơn cha mẹ tôi.

Hỏi: Tôi chưa hiểu lắm. Ông có thể giải thích một chút được không?
Trả lời: Lễ lạy và ngồi thiền, sống bên ngoài
trời hoặc trong tu viện, nói chung cuộc sống của một người "xuất gia" sẽ giúp quý vị thoát khỏi tất cả những thứ không quan trọng trong thế giới này. Vẻ bóng bẩy rỗng tuếch chớp nhoáng sẽ biến mất và quý vị sẽ đối mặt với những vấn đề thực tế lớn lao còn lại là: sanh, già, bệnh, chết (sanh, lão, bệnh, tử).

Hỏi: Rồi sao nữa?
Trả lời:
Không có truyền hình, phim ảnh, quan hệ tình dục, thực phẩm ngon, ma túy, hoặc "thời gian giải trí" - không quần áo đẹp và tiệc tùng những thứ tương tự - tôi thấy mình đang nhìn vào một số thực tế nguyên sơ của cuộc sống: từ trước đến nay tôi vẫn chưa biết cái gì để giúp đỡ bất cứ ai.

Hỏi: Vậy việc đó liên quan đến việc đền ơn cha mẹ của ông như thế nào?
Trả lời: Khi tôi nghĩ lại và nhớ
về nỗi nhọc nhằn mà cha mẹ tôi làm việc cho chúng tôi khi còn là những đứa trẻ, không bao giờ phàn nàn, không bao giờ ích kỷ, tôi vô cùng hổ thẹn rằng trong cuộc đời này của mình, tôi đã làm quá ít để đền ơn cha mẹ.

Hỏi: Và hành trình lạy này là một sự đền ơn?
Trả lời: Một khởi đầu. Nếu tôi có thể đặt cùng một loại nỗ lực và cống hiến vô ngã vào
lạy mỗi ba bước đi (tam bộ nhất bái) như họ đã đặt vào gia đình của chúng tôi, thì như thế là sự khởi đầu đúng hướng.

Hỏi: Những lợi ích gì mà cha mẹ ông có thể nhận được từ việc thiền định và sự cầu nguyện của ông? Chính xác là ông đang làm gì để đền ơn họ?

Trả lời: Đó là những gì tôi đã hỏi chính mình.

Hỏi: Rồi sao nữa?
Trả lời: Cha mẹ tôi là người
hết sức tuyệt vời. Họ làm việc trong khi những người khác chỉ nói mà thôi. Trong khi những người khác nói về gia đình nào đó đã gặp khó khăn như thế nào khi có cha mẹ bệnh hay nằm bệnh viện, thì cha mẹ tôi nấu ăn, chăm sóc con cái và cha mẹ bệnh của gia đình đó. Mẹ tôi làm việc suốt cả ngày và ngủ gục trên ghế khi đang ngồi may khâu vào ban đêm. Bố tôi thì không bao giờ nóng giận cả và vì ông không nói dối hay lừa gạt, ông ta đã từ chối công việc được trả lương cao để sống chân thật. Cả hai người đều rất chân thật, không che đậy giả dối.

Chỉ những đức hạnh này là những gì mà người tu hành cố gắng sống cho chính mình và với những người khác. Đạo Phật hết sức thắng thắn và đơn giản là chân thật.

Hỏi: Nhưng ông đã "bỏ nhà" (xuất gia) và đã từ bỏ cuộc sống gia đình rồi.
Trả lời:
Đúng. Cha mẹ tôi cư xử với tất cả mọi người giống như họ là một phần của gia đình chúng tôi. Mọi người luôn có cảm giác được chào đón và xem như người nhà tại nhà chúng tôi. Trong Đạo Phật, tất cả chúng sanh là người trong một nhà và cần được đối xử như những người thân ruột thịt. Vì thế, tôi từ bỏ ngôi nhà nhỏ để tới một ngôi nhà lớn hơn - “chúng sanh khắp nơi”. Cuối cùng chẳng có hàng rào hay sự tách biệt giữa mọi vật. Giữa tất cả mọi thứ đều là nhất thể. Ý tưởng về một “cái tôi” hay “chỉ có nhóm của tôi” là một ảo tưởng. Chúng ta đều chung một thể, một tâm. Vì thế, tôi cố gắng sống với điều đó trong việc tôi làm là một nhà sư và đền ơn cha mẹ và gia đình không ngừng nghỉ.

Hỏi: Đó là một điều quá tổng quát. Những cách thức cụ thể gì mà một nhà sư như ông, một người rời bỏ những thứ “thế tục”, có thể làm để giúp những người “trần tục” – như cha mẹ ông?
Trả lời: Chính xác
. Những vấn đề mà bây giờ họ đang phải đối mặt, là quan trọng đối với họ – tuổi già, đau ốm và đặc biệt là cái chết – tôi biết gì về những điếu đó? Tôi có thể cho họ cái gì? Những lời nói trau chuốt, tiền bạc, bác sĩ giỏi? – những thứ đó không quan trọng đối với họ. Họ đã dành những năm tháng đầy năng lực nhất của họ cho chúng tôi. Họ không có thời gian để nhìn vào vấn đề bệnh tật, tuổi già và cái chết. Giờ họ đang đối diện với những vấn đề ấy, nhưng ai là người hiểu biết về những việc này, ai là người thật sự biết hoặc thậm chí nhìn vào những vấn đề này một cách đúng đắn?

Hỏi: Đó là những gì tôn giáo đem lại. Đạo Phật mang đến điều gì khác biệt so với những tôn giáo khác?
Trả lời:
Tự do tối hậu thoát khỏi nỗi đau khổ – khỏi sanh và tử.

Đó là những gì mà chúng tôi tìm kiếm ở trong Đạo Phật. Có một truyền thống và phương pháp 3000 năm hiện đang ở Tây phương. Truyền thống đó đối mặt với sanh tử bệnh tật và tuổi già một cách trực diện và chân thật. Nó đặt người ta vào thế để giải quyết những việc đó một cách thực tiễn, ngay bây giờ.

Hỏi: Có phải chỉ cần cầu nguyện thôi không, và nếu vậy thì có gì tốt đẹp? Ý tôi là làm sao mà cầu nguyện có thể làm được gì đó?

Trả lời: À, hơn cả việc cầu nguyện rất nhiều, nhưng cho dù “chỉ có cầu nguyện” như anh nói thôi, thì cũng có tác dụng rồi. Cầu nguyện hay thiền định là một trong vài tài nguyên thiên nhiên ít ỏi mà chúng ta vẫn chưa tìm ra cách gây ô nhiễm hay làm cạn kiệt đi.

Giá trị của nó hoặc nó “có hiệu dụng” như thế nào thì không thể giải thích bằng lời được. Vượt ngoài ngôn từ. Trong số tất cả những kinh nghiệm quan trọng ở cuộc đời của ông, đâu là những ngôn từ cho những điều ấy, chúng đã “tác dụng” ra sao? Thứ thật sự chân thật thì rất bí ẩn, vi tế và tuyệt vời. Vượt trên cả tư tưởng và giá cả.

Hỏi: ông hy vọng bằng cách nghiên cứu Phật giáo và "tu Đạo" để đạt được một số điều gì đó để tặng cho những người khác và gia đình chăng?
Trả lời:
Có câu rằng, "Khi một người con đạt
Đạo, thì bảy đời tổ tiên sẽ được sinh lên cõi Trời”. Tôi có cơ hội hiếm có để tìm hiểu những điều này càng sâu càng tốt. Nếu không cố gắng hết sức thì có thể đó là điều sai lầm.

Một lần, cha tôi tham dự một khóa thiền thất trên một hòn đảo ở Great Lakes. Khi trở về, ông thật là khác lạ– điềm đạm và thanh tịnh một cách mà tôi không bao giờ quên được. Một trong những điều mà ông dạy chúng tôi lúc đó là đừng “quá bám chấp vào cuộc sống, vào thế gian, vì chúng ta chỉ đi ngang qua thôi”.

Cha tôi đã không bao giờ có cơ hội để theo đuổi điều đó – đi ngang qua từ đâu đến đâu? Nếu tôi có thể sử dụng cơ hội này, tôi sẽ có được cái gì đó thật giá trị để chia sẻ cùng với cha mẹ tôi và với rất nhiều người khác.

Hỏi: Điều đó nghe có vẻ cha mẹ anh rất có tín ngưỡng. Tại sao họ lại quan tâm đến điều gì khác như là Phật Giáo chứ?

Trả lời: Một sự thật chân thật và đáng buồn là cha mẹ tôi là những người Thiên Chúa Giáo thuần thành suốt cả đời họ, và anh có biết rằng, họ đã chẳng được nhiều hiểu biết hoặc được an lạc với điều đó khi họ phải đối mặt với tuổi già và cái chết. Họ rất là sợ hãi và đầy nghi ngờ cùng với mong mỏi trong tuyệt vọng về một điều gì đó. đó là sự thật.

Có một thời điểm khi mà mọi thứ hét lên “Tôi không thể đi nữa, tôi không thể”.

Nhưng quý vị vẫn đi. Và khi quý vị chạm đến cực điểm này, giống như một kiểu chết vậy, bang! Đột nhiên quý vị ở phía bên kia và mọi việc lại ổn. Và nhìn lại phía sau tất cả mọi thứ đen tối nặng nề đó trông thật là ngốc nghếch và xa vời. Có cái gì đó được bứt đi, được tháo lỏng. Không khí mát mẻ hơn và quý vị tái sanh trở lại … và con đường phía trước nếu quý vị nhìn kỹ, còn có nhiều chỗ tối và nhiều ánh sáng hơn xa đến tận tâm trí mình có thể thấy. “Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn”, vì thế quý vị đi để đối mặt với nó.

Điều mà luôn cảm thấy “lệch lạc” và sai lầm ở bên trong về chính trị và hoạt động chính trị xã hội là phải có một kẻ xấu, một kẻ thù. Gọi nó là phe đối lập, hay đảng phái hay một bộ máy, hay giai cấp hay kẻ đó hay nhóm đó - rốt cuộc cũng như nhau. Cái cách tách biệt, phân loại nhận diện thay vì đồng cảm chính là điều mà tâm trí đã nảy sinh ra những vấn đề để cho những phe nhóm này tranh đấu với nhau để giải quyết.

Trong Đạo Phật, không có sự phân biệt như vậy, không có “chúng ta” và “họ”, không có “tôi” và “anh” đối với bất kỳ việc gì hoặc với bất cứ ai. Quý vị không phải mang trong tâm mình mối hận thù với bất kỳ một “học thuyết” hay tôn giáo nào. Một trong mười giới trọng của Bồ Tát Giới, đúng thế, nghiêm cấm “việc cố ý ghen ghét”.

Giờ đây khi việc đó đặt vào đúng vị trí và nó sẽ khiến cho con người ta thoải mái hơn rất nhiều khi nhìn vào tất cả mọi người một cách chân thành và với một trái tim trong sáng.

 

Hằng Thật - Ngày 12 tháng 7 năm 1977

Ba kho báu quý giá của tôi



Mong ước của tôi.

Tại căn cứ hỏa tiễn, tôi nhớ lại mong ước của mình mấy năm về trước: nếu quý vị có thể hoàn toàn có được bất cứ thứ gì trên thế gian, vật gì đó hay sự kiện gì đó, thì quý vị mong ước điều gì? Câu trả lời của tôi lúc đó là: Tôi mong ước sự chấm dứt của tất cả các loại vũ khí, mọi thứ được thiết kế ra để giết hại.

Lời mong ước tốt đẹp. Ngoại trừ điều đó mãi mãi sẽ chỉ là một sự tưởng tượng không bao giờ trở thành thực hiện. Thế những suy nghĩ về sự giết hại thì sao? Đó là nơi mà vấn đề phát sinh.

Tôi đột nhiên liên hệ: Nếu quý vị có thể chấm dứt những suy nghĩ về tham, sân, si, thì khi đó quý vị có thể đạt được mong ước của mình quý vị có thể thật sự chấm dứt việc giết hại trên thế gian này. Thật tuyệt vời làm sao!

Bắt tay vào làm việc và thực hiện các điều ước.

Những suy nghĩ khao khát của tôi mấy ngày này đều chìm trong những ảo tưởng rằng thật tuyệt làm sao nếu có thể được ăn “miễn phí - muốn ăn bao nhiêu cũng được” trong một quán ăn tự phục vụ công cộng. Thật là nực cười! Một bước ngược vào bên trong có thể giúp tôi chữa trị căn bệnh ảo tưởng của mình. Tôi biết thức ăn là hư thối, không chay tịnh, rằng bầu không khí làm tê khẩu vị và rằng bức tranh toàn cảnh là giả tạo.

Nhưng nó cứ vẫn tiếp tục tái xuất hiện. Kéo nó lại và nhìn vào nó một lần nữa. Tìm kiếm nguồn gốc. Đập vỡ ảo tưởng, quay trở lại làm việc. Đổ hết rác rưởi ra ngoài.

 

Ba người bạn sai lầm của tôi.

Sáng nay tôi tỉnh dậy với một nhận thức chân thực vững chắc rằng tôi hoàn toàn là một kẻ ngu ngốc. Đây không phải là lời biện hộ xu nịnh thông thường của tôi để được chấp nhận hay để được ưa thích hay được tha thứ từ người cha tưởng tượng của mình (hoặc bất kỳ một nhân vật thay thế nào đó mà tôi hướng đến), đây đơn giản chỉ là tôi đang chán ngấy với ba người bạn xấu xa của mình – Tôi ngu ngốc, tôi đã bị đánh lừa trong một thời gian đủ dài. Tôi mệt mỏi với nó. Mọi việc tôi làm đều dựa trên sự giả dối về một cái tôi đang tồn tại – Tôi lên thiên đàng và xuống địa ngục để làm hài lòng những người bạn giả dối này. Một động cơ thúc đẩy khác trong cuộc sống là tôi đặc biệt quan tâm cho cái thân thể dơ dáy và yếu đuối này. Người bạn giả dối này được chế tác bằng tất cả sự chính xác của chiếc hơi chế tạo ở Detroit với tiêu chuẩn trung bình và nó tồn tại cũng không được lâu dài cho lắm. Cái thân xác này làm hỏng mọi ước nguyện của tôi ở khắp mọi nơi chốn. Những thói quen của tôi thì ô uế, bủn xỉn và ích kỷđây là ba người bạn hư giả của tôi.

Tôi là một kẻ ngu ngốc mới tiếp tục đi theo họ thêm nữa.

Cuối cùng tôi cũng gặp được điều gì đó tốt đẹp và tinh khiết – Pháp của Phật và ba bảo vật quý báu của tôi, cái tôi, thân thể tôi và những thói quen của tôi, những chức năng vận động vô tận thỏa mãn cho cái tôi và và thể xác để làm mọi việc và bất kỳ điều gì để cố gắng làm hư hoại, hoen ố và méo mó các nguyên tắc của Trung Đạo mà tôi đang cố gắng thực hành.

Chỉ nhờ Phật Pháp và Tam Bảo cùng vị thầy vô cùng t bikiên nhẫn, “thường trụ” và có thật, thì ba người bạn xấu xa của tôi mới không bao giờ che khuất được toàn bộ ánh sáng của sự hoàn hảo thứ đã thu hút tôi tu hành cũng giống như những mạt sắt bị nam châm hút vào vậy.

Nhưng họ cố gắng, theo những cách thô thiển và vi tế và tôi nghe theo họ.

Bao nhiêu lần việc ăn quá nhiều làm hỏng công việc buổi chiều của tôi? Bao nhiêu lần những vọng tưởng bất tận phá hỏng chánh niệm của tôi? Bao nhiêu lần năng lượng do những thói quen ô trược gây ra sự lãng phí những gì thật sự quan trọng? Nếu tôi có được một mảy may của sự rõ ràng chân thật, thì tôi sẽ buông bỏ mọi bám chấp giống như buông bỏ một nhúm kiến đang gặm nhấm lên cánh tay tôi.

Nếu tôi có một chút ít lòng từ bi đối với thân phận của mình, thì có lẽ tôi sẽ không bao giờ để mình rời khỏi tư thế chắp tay cung kính trước ngực – tôi cũng sẽ không thôi tụng niệm, tán thán và cúng dường chư Phật, Bồ Tát và Pháp Giới. Và tôi cũng sẽ chân thật tiến về điều tốt đẹp với những bước đi vững vàng trên thực địa.

Tôi phát ngán việc bị ba người bạn xấu xa lừa phỉnh và dối gạt. Đã đến lúc tôi phải bỏ mặc họ lại phía sau và tìm kiếm những người bạn đồng hành tốt hơn, những người muốn làm việc vì lợi ích của người khác, chứ không vì sự keo kiệt và tham lam ích kỷ của bản thân. Đã đến lúc phải trưởng thành chân thật và vững chắc.

Lúc này có một tiếng nói ở trong tôi thường xuyên cho tôi những chỉ dẫn, lời khuyên và những quyết định cho việc bước đi trên con đường chân chánh (Chánh Đạo). Đó là một tiếng nói nhỏ nhẹ nhưng tôi thường lờ đi và thay vào đó tôi lại nghe theo những thôi thúc đang thì thầm và rên rỉ cũ rích của mấy người bạn giả dối của mình. Nhưng giờ tôi không còn thỏa mãn với những lời khuyên của họ thêm được nữa. Tôi không còn muốn bước đi trên con đường tối tăm, gồ ghề và nhỏ hẹp của họ thêm nữa. Tôi sẽ tìm và lắng nghe một tiếng nói khác – tiếng nói của trí tuệ vốn có, tiếng nói của thầy tôi, tiếng nói của ánh sáng, từ bi và giải thoát.

Cũng có thể tôi sẽ không bao giờ chấm dứt là một kẻ ngu ngốc, nhưng tôi muốn một cơ hội để bước đi đúng hướng và xứng đáng với những người bạn mới chân thật của mình.

 

Hằng Triều - Ngày 13 tháng 7 năm 1977

Máy ghi âm nhỏ
 


Bà Hsiah và cô Alice lái xe
đến mang theo bữa ăn trưa và một số vật dụng (đèn cầy, hương, , và xà phòng). Họ cũng mang một máy ghi âm nhỏ và chúng tôi đã được nghe một cuốn băng các bài giảng kinh tối của Sư Phụ tại chùa Kim Sơn Thánh Tự.

Chúng tôi đang lạy tại những Tổng Hành Dinh: Trung Tâm Thử Nghiệm Hỏa Tiễn Thái Bình Dương (Pacific Missile Test Center) Kho Quân S(Military Installation). Không được phép trên khu căn cứ, chúng tôi lạy tại chỗ nơi phi đạo bắt đầu. Tiền gầm rú của những chiếc máy bay đang hạ cánh tranh với giọng đọc kinh Hoa Nghiêm của Sư Phụ - sẽ nghe được cái nào đây? Sẽ phải cần rất nhiều kiên nhẫn và tu hành để mang những chiếc hỏa tiễn và Phật Pháp trở lại với nhau. Điều đó rất tương phản.

 

Hằng Thật - 15 tháng 7, 1977

Những người khác thì thấy chúng tôi là ma quỷ



Cái gì đó quý vị không thể chịu đựng được.

Tôi đã từng nghe một nguyên tắc nói rằng để cho việc tu hành thật tốt đẹp thì quý vị cần có cái gì đó ở chung quanh khiến cho quý vị không thể chịu đựng được. Nó giúp cho quý vị sống trong khốn đốn, nó dồn quý vị vào dụng công ở bên trong.

Ở trên đường có nhiều thứ khác nhau mà ngay lúc đầu không thể chịu nổi, rồi dần dần, chúng trở thành “những vị thiện tri thức”, trợ giúp cho việc tu hành.

Bên ngoài có kiến và những loại bò sát, những đàn muỗi, ruồi, những cơn gió mạnh, ánh nắng thiêu đốt, những chiếc xe tải chở hàng khổng lồ, những tiếng còi, tiếng la hét, chế nhạo, lời nguyền rủa, những chiếc máy bay phản lực bay thấp chừng 30 thước ở trên đầu, thử nghiệm hỏa tiễn, đá sạn, mảnh chai, những khu chật chội, bẩn thỉu.

Bên trong thì có bệnh tiêu chảy, cần đi tiểu, không chỗ trú ẩn cả nhiều dặm, ăn quá nhiều, ăn quá ít, khát nước, vọng tưởng, những bài hát, nỗi sợ hãi, tham lam, sân hận, ngu si, kiêu ngạo, hổ thẹn và chán nản.

Khi ít nhiều tất cả những thứ như thế này cùng xuất hiện trong quá trình lạy của một ngày, quý vị có thể nghĩ rằng chúng tôi là những chuyên gia tu hành rất giỏi, theo câu nguyên tắc nói trên – buồn thay chúng tôi không được như vậy. Trong khi gặp một số trong những thứ này chúng tôi buông bỏ được, thì hầu hết những thứ đó vẫn là “những điều mà tôi không thể chịu đựng được” và tâm tôi vẫn chưa được “như như bất động”.

Hành trình này ngày càng làm rõ thêm rằng không có cái thực tế nào “ở bên ngoài” cả. Thực tế đến trong nhiều thứ đa dạng khác nhau nhiều như số chúng sanh đang nhìn vào thực tế đó. Thực tế được tạo thành bởi nghiệp, chướng ngại, sự sợ hãi của quý vị, bởi những hạn chế về giác quan của cơ thể ở mức độ cơ bản, và rồi nó được định hình bằng những kết quả của nền tảng gia đình, bạn bè, thức ăn, và môi trường.

Một số nhìn vào chúng tôi và thấychúng tôi là những người thánh thiện, những người khác thì lại thấy là ma quỷ.

Một số thì thấy chúng tôi như là phước lành và nhiều người lại thấy chúng tôi như là những mối đe dọa. Chúng tôi vẫn làm công việc giống nhau, cái lạy như nhau trước mặt tất cả những người khác biệt này – chính những gì họ mang đến biểu lộ cho họ những điều mà họ nhìn thấy.

Không có thực tế khách quan và cũng chẳng có tính khách quan. Một phi công hải quân đã nhìn thấy chúng tôi lạy và lúc đầu nghĩ rằng chúng tôi đang mong điều không tốt cho khu căn cứ này. Sau khi nói chuyện với chúng tôi, anh ta nghĩ rằng chúng tôi đang phù hộ khu căn cứ. Trước đó chúng tôi có khác gì không?

“Không lớn, không nhỏ, không trong, không ngoài. Tự tu, tự hiểu rõ, tự an bài”

 

 

Thầy Hằng Triều - Ngày 14 tháng 7 năm 1977

Nó chỉ là sự khởi đầu thành kẻ giết người



Tập Thái Cực Quyền trước lúc bình minh trên khu đất để vật liệu nông trại của công ty Pure-Gro. Một nhóm mấy người nông dân ngái ngủ, đầy sửng sốt nhưng thân thiện nhìn xem chúng tôi trong lúc mặt trời mọc lên phía trên thung lũng khô cằn. Có thể họ nghĩ đó là một vũ điệu cầu mưa.

Thung lũng Pleasant đang bị hạn hán. Do không có nước đã biến vùng này thành một vùng trũng đầy đất mịn và bụi. Chiếc xe bị phủ và những đám mây bụi xoáy cuộn và di chuyển theo từng cơn gió hoặc chiếc xe chạy nhanh qua. Còn sót lại vài cây mọc tự nhiên để giữ đất – không có cỏ, những nông trại trồng trọt kinh doanh rộng lớn. Sở giao thông Tiểu bang Cal Trans đang xịt thuốc diệt cỏ bằng một chiếc xe tải đang chạy chậm ngay phía bên đối diện với chúng tôi. Chúng tôi đi ba bước và lạy một lạy. Họ thì đi ba bước rồi xịt mấy con bọ và thực vật bằng những hóa chất độc hại. Chúng tôi trườn lên cùng một vận tốc. Cùng một lúc, họ giết những con bọ và chúng tôi làm lễ quy y cho những con bọ đang chết. Chúng tôi nhìn họ. Họ nhìn chúng tôi. Cả hai đều đang tự hỏi. Đối với một con bọ, điều đó hẳn phải giống y như một quả bom dội lên chúng ta. Việc giết hại không bao giờ là sự chấm dứt, cuối cùng – đó chỉ là một sự khởi đầu cho kẻ giết người thôi. Tất cả sẽ quay trở lại, quay vòng và trở lại. Nếu như lúc này đây trên thế gian thiếu vắng lòng từ bi thì đó là vì trong quá khứ đã có quá nhiều việc giết hại. Lịch sử là lúc này.

Anh Bob Sweet dừng lại và cúng dường, nói “Cần bất kỳ thứ gì, xin hãy gọi cho tôi”, và để lại địa chỉ, số điện thoại ở Oxnard. Sau đó, anh ta mang lại phô mai và hoa quả. Hai người phụ nữ lớn tuổi cúng dường ít nước chanh và bánh mì kẹp. “Chúng tôi không chắc lắm, vì vậy chúng tôi đả làm những chiếc bánh này theo kiểu chay”, một người nói. “Đúng vậy, đó là bánh bột mì tự làm”, một người khác nói. Thật là những người tử tế.

Thầy Hằng Thật nói chuyện với một viên phi công, người này biểu lộ một cảm giác mạnh mẽ về việc không muốn giết hại. “Nhưng ông sẽ làm gì?” anh ta hỏi.

Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma lần đầu tới Trung Hoa, Ngài đã gặp một chú vẹt bị nhốt trong chiếc lồng đan bằng cây gai. Chim nhận ra Tổ, liền nói:

Tây lai ý,

Tây lai ý,

Thỉnh Ngài dạy con cách,

Thoát khỏi chiếc lồng này.

Để dạy chim cách để chấm dứt đau khổ, Tổ Bồ Đề Đạt Ma chỉ cho một phương kế:

Để thoát khỏi lồng,

Để thoát khỏi lồng,

Hai chân duỗi thẳng,

Đôi mắt nhắm nghiền,

Đây là phương cách,

Để con thoát lồng.

Khi người chủ trở về nhà, ông ta thấy con chim yêu quý của mình nằm yên và bất động ở dưới đáy lồng. Ông ta mở cửa lồng và lấy tay bốc ra ngoài, nhận thấy nó vẫn còn ấm, ông mở bàn tay ra để quan sát rõ hơn và ... vù ... vù ... – chim vụt bay lên được tự do.

Giết hại sẽ buộc quý vị vào việc giết hại thêm nữa. Trong một kiếp quý vị là một người lính và giết người, trong kiếp tới, bộ Ngoại giao gởi thông báo tới gia đình quý vị , “Chúng tôi rất tiếc phải thông báo với gia đình anh rằng anh A đã bị giết trong chiến trận”. Hành động và tác động ngược, quay vòng và quay vòng, đời đời nối tiếp cho tới khi quý vị ngừng lại. Rồi những con sóng tự nó sẽ yếu dần đi và sự bình yên sẽ trở lại. Đôi khi, quý vị phải giả chết để được tự do.

Có bao nhiêu gia đình mất đi những người cha và con trai vì chiến tranh? Có bao nhiêu đứa trẻ và những người vợ mất chồng, cha và anh vì chiến tranh nối tiếp chiến tranh? Tất cả những hình thức tranh đấu và thù ghét làm tan vỡ gia đình. Tôi muốn góp phần mang lại hòa bình và hạnh phúc tới mọi gia đình ở khắp muôn nơi. Tôi muốn bằng cách nào đó nói lên rằng,cha mẹ và con cái hãy thôi làm tổn thương lẫn nhau vì sự tham lam, căm ghét và ngu ngốc.

Hãy chấm dứt sự phá vỡ gia đình do đấu tranh và giết hại; hãy từ bi và kiên nhẫn.

Tôi nguyện sẽ không ngủ nằm vào ban đêm nữa và hồi hướng mọi công đức cho mục tiêu này.

 

 

Hằng Triều - Ngày 15 tháng 7 năm 1977

Bữa ăn trưa có gì?

 

Thức ăn, thức ăn! Câu chuyện xưa cũ. Đóng lại một trong những chiếc van ham muốn lớn nhất và những chiếc van khác bắt đầu xì ra, phình lên và rung lắc do áp suất bị chuyển hướng tìm kiếm một chỗ thoát ra ngoài.

Bắt đầu ngủ ngồi và chuyện gì xảy ra? Đêm đầu tiên, giấc mơ rõ ràng sống động về thức ăn. Suốt cả ngày trong khi lạy những vọng tưởng về thức ăn thoi đấm cơ thể và tâm trí tôi. “Bữa trưa có gì?”

“Ngày mai thì sao?”

“Không, tôi không thể chờ đợi. Nhớ món ăn đó .... ”

“Liệu có ai đó sẽ cho chúng tôi mấy quả dâu tây?”

Thật ghê tởm. Tôi không bao giờ nghĩ mình lại có thể bị như vậy – giống như que kem đang tan chảy trong những con sóng xô mạnh. Tất cả đều giống nhau - ham muốn = lậu thoát hay phun trào ra.

Cắm trại ở gần một vườn chanh cách xa đường Hueneme bên ngoài Oxnard. Yên lặng - Cơn cuồng phong Thức Ăn tạm thời được kiểm soát.

 

Hằng Thật - Ngày 16 tháng 7 năm 1977

Điều đó trở nên khó tìm

 

Khi sự chú tâm tốt đẹp, thế giới Ta Bà mà tôi tiếp nhận qua các giác quan kết hợp lại và ngừng chuyển động. Tôi hòa vào đó, ánh sáng trí tuệ và sự sáng tỏ của kinh nghiệm đó thật tuyệt vời. Đó là “như, như, bất động, thấu triệt và chấm dứt, và quang minh thường trụ”. Khi một niệm kế tiếp sanh khởi, thì thế giới sanh khởi.

 

Bình yên và tĩnh lặng.

Sư: “Chuyến viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành của quý vị thế nào?”

Cư sĩ: (khá trầm và không hứng thú, có cảm giác như ưa thích những địa điểm khá sống động hơn, “nơi náo nhiệt”) “Ồ, nơi đó đẹp… tĩnh lặngyên bình, thầy biết đó, chỗ đó cũng được”.

Nếu mọi người có thể nhận ra tiềm năng của hạnh phúc tột cùng và sự tốt lành chỉ đơn giản là tĩnh lặngbình yên, và điều đó tương phản như thế nào với địa ngục của sự ồn ào, đau khổ hỗn loạn, và trái nghịch với những gì được thấy ở Vạn Phật Thánh Thành, thì kinh nghiệm về sự bình yên và tĩnh lặng có thể sẽ mang lại thêm đôi chút giá trị.

 

Bình yên và tĩnh lặng khó đến trong thế giới này. Điều đó trở nên khó tìm.

Sự thanh khiết đang biến mất. Không gian dành cho con người, loài vật, sự tăng trưởng, lòng tốt và sức khỏe là những thứ quý báu nhất trên trái đất này, chỉ sau nước sạch. Nếu quý vị không tin, hãy đi bộ bên dưới con đường xa lộ ở Los Angeles hoặc ở bất kỳ thành phố lớn nào. Mở rộng các giác quan và đón nhận tất cả vào.

Hãy nhớ rằng mọi người cũng giống như chúng ta đã tạo ra vùng đất khô cằn bị bê tông hóa. Hãy mở rộng trí tưởng tượng của quý vị, lát và sơn toàn bộ không gian xanh mà chúng ta còn lại. Quý vị không phải làm việc quá nhiều để xem điều ấy diễn ra. Rồi quay trở lại Vạn Phật Thánh Thành rộng mở các giác quan của mình. Quý vị có muốn sống ở một thành phố của Chư Phật không?

 

Để nó nghỉ ngơi hay để nó làm việc.

Tâm trí của tôi liên tục chuyển động và làm việc, không bao giờ ngơi nghỉ. Tôi sẽ giao cho nó vài việc gì đó để làm, khiến nó hạnh phúc, trao cho nó một tư tưởng lớn, giống như Chư Phật, giống như Thế Giới Hoa Tạng, giống như Pháp Thân chẳng bao giờ đi và cũng chẳng bao giờ đến. Được rồi, tâm trí, hãy làm việc đó nhé. Hoặc đơn giản hãy im lặng.

 

Đừng làm vơi đi hoàn cảnh khốn khó

Khi quý vị chăm chỉ tu hành, đôi khi việc chăm chỉ tu hành đó có thể trở nên “khó chịu” bởi vì quý vị đang thực hiện một quá trình chuyển hóa ở bên trong thân tâm và hệ thống năng lượng của quý vị. Những phần này của quý vị lâu nay không lành mạnh, bị đông cứng lại với sự mục ruỗng và ô uế do sử dụng không đúng cách. Để cho nó làm việc đúng cách, quý vị cần phải làm nóng lên, phải chịu đựng một vài sự khó chịu và xây dựng nó mạnh mẽ trở lại.

Có một sự hối thúc liên tục để làm giảm áp lực, bớt căng thẳng, thoát khỏi hoàn cảnh khốn khó nghiệt ngã. Cái Tôi kháng cự lại khi đang dần bị tiêu diệt nó gợi ý cho bộ não của quý vị nhiều cách thức rất vi tế và khéo léo để giúp cái Tôi được sống sót. Những thôi thúc tưởng chừng vô hại nhưng lại gây trở ngại cho công việc của quý vị: uống một ly nước, tán chuyện đôi chút, bông đùa, quan sát, nhìn quanh, ăn thêm một chút, thưởng thức kỷ niệm, viết một kịch bản phim ở trong đầu – tất cả những điều này đều là những hành trình được dẫn dắt bởi cái Tôi nhằm đưa quý vị ra khỏi tình cảnh ấy, hạ nhiệt và cản trở nỗ lực của quý vị đi đến sự giác ngộ.

Hãy thật nhạy cảm với những mánh khóe của những vị cố vấn xấu xa đầy lão luyện này, giữ nắp đậy trên nhiệt lực bên trong của quý vị bằng thần chú, chánh niệm không vọng tưởng – dùng những Pháp môn thích hợp để đi vào vào kho báu Phật tạng ở ngay bên trong chính quý vị. Hãy cúng dường thân thể và cuộc sống của quý vị cho Tam Bảo.

 

 

Hằng Thật - Ngày 16 tháng 7, 1977

Hai con gà trống gáy lẫn nhau



Một người đàn ông trẻ trong chiếc xe tải cũ kĩ dừng lại, “Chúng tôi nhìn thấy các ông trên TV. Chúng tôi nghĩ rằng điều các ông làm thật tuyệt vời!”, ông nói. “Đây là một số thực phẩm. Con trai nhỏ của chúng tôi thích những đồ ăn này, nên tôi nghĩ các ông cũng có thể ăn được. Đó là tất cả những gì chúng tôi có trong nhà, chúng tôi vẫn chưa đi mua sắm”. Bơ đậu phộng, mứt bánh mì và bột pha nước uống mùi vị trái cây (KoolAid).

Một người lang thang già không mang giày và không tắm đã hàng tháng đi ngang qua chúng tôi, trên con đường Hueneme Rd. gần vườn cây ăn trái và đậu Hà Lan. Chúng tôi đưa cho ông ấy một ít bánh mì kẹp và bột pha nước KoolAid. “Hôm nay các ông làm gì thế” ông ấy hỏi.

“Thực hiện chuyến hành hương tôn giáo về Vạn Phật Thánh Thành”

“Để cầu mưa à?” ông ấy thắc mắc.

“Phải, và hơn thế nữa. Có quá nhiều căm hận và đau khổ. Chúng tôi đang cố gắng làm dễ chịu đi chút ít và gây ảnh hướng tới những người khác cũng làm như vậy”. Ông ấy nhìn thẳng vào mắt như thể là muốn kiểm tra sự chân thành của chúng tôi.

“Công việc lớn lao”, cuối cùng ông ấy nhận xét. “Không giày [bootless] hả?”

“Không”, tôi trả lời, “Phật tử, [budhist]. Chúng tôi là những Buddhist (Phật tử), còn ông là bootless (không có giày)”.

Mỉm cười và thoải mái.

Ông ấy nhìn lên trời khi hai chiến đấu cơ phản lực đang hạ cánh xuống khu căn cứ. “Kỹ thuật”, ông ấy nói và lắc đầu. “À! Miễn rằng các ông là nhà thờ của thế giới và làm tốt công việc tôn giáo của mình”.

“Khá đúng”, tôi trả lời.

 

Mỗi người thấy theo sự hiểu biết của mình.

Phật Pháp không thể nắm bắt bằng suy nghĩ.

....

Người huệ nhãn thanh-tịnh

Nơi đây mới thấy được (Phật Pháp).

...

Chỗ thấy đều sáng rõ.

Kinh Hoa Nghiêm

 

Thật khô hạn! Không mưa – trái đất đang biến thành bột phấn màu nâu, một thứ bột rất mịn nhỏ đi qua những ô cửa sổ đóng, quần áo và các lỗ chân lông của chúng tôi. Thật khổ sở cho mắt và phổi đặc biệt khi những xe tải dài chạy bằng dầu diesel cùng với hai toa kéo chạy qua trên đường cuốn theo những đám mây “cát bụi khô hạn” này phả vào chúng tôi.

Ở đây có một vài con côn trùng hoặc chim. Vài bông hoa, ngọn cỏ. Nhưng lại có rất nhiều chất độc (thuốc trừ sâu và thuốc phun nông nghiệp) và thiên nhiên yên nghĩ phản ứng lại sự khuấy phá của chúng ta với thiên nhiên. Thật là một “mùa hè yên lặng”.

Chúng tôi thức dậy theo tiếng một con chim kêu “croak croak” và tiếng “bíp” điện tử từ phía vườn cây ăn trái. Tấm bảng ghi “Trang trại sản xuất sản phẩm tươi”.

Phật diễn một diệu-âm

Nghe khắp mười phương cõi. (1)

Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Như Lai Hiện Tướng

Một anh chàng cao bồi cao lớn kêu ré lên bên trong chiếc xe tải nhỏ và bước qua, đứng như chôn chân ngay trước chúng tôi, năm cậu thanh niên vẻ háo hức vây xung quanh. Đôi mắt tôi nhìn ngang tầm với cái khóa thắt lưng kiểu Tây phương của anh ta. “Thật khó cho tôi để hiểu được (chúng tôi đang quá khác biệt so với những gì mà anh ta đã từng trông thấy), nhưng, tốt, các ông thật sự có gì đó đáng tin cậy (anh ta nắm chặt bàn tay lên phía trái tim) đến từ đây. Tôi có thể thấy điều đó. Các ông đang thật sự làm việc gì đó mà mình tin tưởng. Tôi ngưỡng mộ điều đó”, tiếp theo là cái bắt tay lớn mạnh và cúng dường. Đám thanh niên không nói một lời, chỉ im lặng quan sát.

 

Những chú gà chọi.

Có một định gọi là “vô tranh” hay “không tranh chấp” tam muội và đạo lý ẩn chứa bên trong đó là một phần tuyệt vời của Phật Pháp trong hành động. Huấn thị cho chuyến đi của chúng tôi đã rõ ràng: “Không đánh nhau, không tranh chấp, không tranh cãi, không tức giận. Đây hẳn sẽ là một khía cạnh chính yếu của Đạo Phật ở Phương Tây”.

Khi chúng tôi gặp sự thù nghịch hoặc nóng nảy, thầy Hằng Triều đã học cách buông xả và không bị xoay chuyển một mảy may. Sáng thứ hai trên con đường nông trại, một người lính hải quân dáng nhỏ bé có tật nói cà lăm bước ra khỏi xe, bước tới và chỉ trích. Hằng Triều nghe những lời nói đầu tiên của ông ta, xem sắc thái của ông ta, rồi đưa cho ông ta một bản thông cáo và nói, “Xin lỗi, tôi đi lạy đây!” và đi. Rồi ngay sau đó, một chiếc xe khác dừng lại, một vị mục sư của Nhà thờ Phổ Độ (Universalist) nhảy vọt ra, người này thích bảo vệ quyền tự do của mọi người về tín ngưỡng cho dù điều đó có nảy ra một trận tranh luận nảy lửa và vũ lực để tạo chỗ cho tín ngưỡng đó. Vị mục sư nhanh chóng tham gia vào cuộc tranh luận với viên hải quân nọ - nói anh ta rằng hãy để cho những người Phật tử được yên. Họ bắt đầu đưa ra những trích dẫn Kinh Thánh như những cú đấm ném vào nhau. Tôi lúc đó đang lạy phía trước và đã không biết rằng, người đàn ông thứ hai đã lái xe đến. Tất cả những gì tôi nghe thấy là những âm thanh nóng nảy trong một trận chiến thật sự, đấu qua đấu lại bằng những ngôn từ và trích dẫn Kinh Thánh. Tôi nghĩ, “Hằng Triều chắc chắn thoát khỏi rồi”. Rồi tôi nghe thấy tiếng sột soạt của chiếc y giới ny lông của thầy ấy. Tôi quay lại, thì ra là thầy Hằng Triều đang lạy phía sau tôi. Đằng sau, dưới con đường là hai chiến binh tôn giáo đang thái quá trong cuộc chiến về sự đúng đắn của mình.

Phía bên kia đường ngang qua phía trước họ có một ngôi nhà nông trại và hai chú gà chọi đang gáy nhau, lớn và dài tiếng. Không kẻ nào thắng trong cả hai cuộc chiến, nhưng họ vẫn cứ cố làm trong khi chúng tôi lạy xa dần khỏi tầm nghe và xuống phía dưới con đường.

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ: 佛演一妙音 周聞十方剎 - Phật diễn nhất diệu âm chu văn thập phương sát.

 

Hằng Triều - Ngày 17 tháng 7 năm 1977

Dâu tây hay Chư Phật?



"Tu là khổ, hết khổ là Phật"
Hòa Thượng Tuyên Hóa

 

Đôi khi, từ bỏ mọi phiền não dường như làviệc không thể được. Phiền não là gì? Phiền não đơn giản là bám chấp. Chấp vào tài, sắc, danh, thực, thùy. Chấp tướng, thọ, tưởng, hành, thức. Khi bám chấp thì quý vị:

“… Chẳng tu đạo sâu mầu
Bị các khổ não loạn.”

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
 

Vua Lương Võ Đế, triều đại nhà Lương đã bị chết đói vì ông ta không có chút công đức nào, không tu hành. Tu cái “chân lý vô ngã” là cách để chấm dứt đau khổ. Nếu quý vị muốn chấm dứt đau khổ thì quý vị cần phải tu hành.

Vì thế, khi tôi lạy, đau khổ cùng với tất cả những vọng tưởng của tôi về lương thực và tụng bài tà chú của mình “có phải lương thực đang tới chăng, có phải lương thực đang tới chăng, hoặc khi nào thì thức ăn sẽ tới đây”, tôi nhận ra rằng sự đau khổ này là do chính mình tạo ra. Tôi càng ít tu tập thì tôi càng đau khổ. Tôi càng chuyên tâm lạy thì ham muốn và vọng tưởng khiến tôi đau khổ được giảm đi.

Tôi tưởng mình ít bám chấp vào mọi thứ hơn là thật sự. Ba bước một lạy đang ăn mòn tất cả những vỏ bọc mà tôi đã và đang phủ lên cái tôi thật – tốt và xấu, giả và thật. Sau một thời gian, điều này trở nên không che đậy và vi tế. Ai có thể nghĩ lạy bên cạnh cánh đồng đầy dâu tây chín lại có thể là màn đối đầu đầy căng thẳng. Dâu tây hay là Chư Phật?

Đào xuống, sâu và bẩn, nơi những cái rễ bắt đầu, đám ma quỷ của tôi và vị Phật cùng nằm ở đó. Mới đầu thật là khó phân biệt. Con quỷ sâu xa nhất, tăm tối nhất, khó nắm bắt và lén lút nhất, con ma vương chia sẻ cái đu đối trọng cùng với Phật . Cái đu đối trọng mọi hướng là cái tâm. Có thể làm thăng bằng cái đu đối trọng để nó chẳng bồng lên hay hạ xuống. Có thể làm thăng bằng cái tâm để nó không phải quỷ cũng không phải Phật, và vì vậy nó như như bất động. Nó có thể… dễ dàng như những trái dâu tây.

Sáng nay. Tôi đã gắng hết sức để không khởi vọng tưởng trong khi lạy. Chúng tới như những con sóng dâng trào và với mỗi cơn sóng, tôi lại chuẩn bị tinh thần và lánh sâu vào việc niệm và bái lạy. Một lúc sau, cơn gió mát lành mang đi cái nóng nực và không còn ý niệm nào vế nó. Tôi đã hiểu được một câu kinh mà trước đây tôi đã không thể hiểu. Một thắng lợi nho nhỏ.

Sau cuộc tranh luận với một lính hải quân nhỏ con, Louis Aosco, vị mục sư theo thuyết Phổ độ trở lại xin lỗi thay cho người thủy thủ đó. "Công việc của tôi là chấm dứt việc đó - để tiêu trừ cái tính không khoan dung đó. Tôi xin lỗi. Nếu tôi làm việc của mình, điều ấy hẳn sẽ không xảy ra ". Ông ta nói tiếp "Tôi tôn trọng quyền của các ông bao dung cho những điều như vậy, nhưng tôi không nhất thiết phải làm như vậy". Louis ngỏ lời muốn phục vụ và bảo vệ chúng tôi khi chúng tôi ở trong khu vực. "Các ông đã mang đến cho tôi một điều gì đó mà tôi không thể diễn tả. Trong khi các ông còn ở trong khu vực này, tôi sẽ lo các nhu cầu của các ông". Ông ta nói một cách chắc chắn và ân cần.

"Anh ta có làm phiền các ông không?"

Thầy Hằng Thật chỉ tay thẳng về phía trước như muốn nói "Vượt qua cả mưa gió, vượt qua những lời khen chê, chúng tôi vẫn tiến bước".

Louis kêu lên "Đúng như thế! Có phải vậy không?"

Chúng tôi hỏi "Điều gì?"

"Không quay lại, cứ tiếp tục. Tôn giáo là như vậy phải không, không quay lại"?

Khi chúng tôi lạy qua con đường dành cho xe của một trang trại chăn nuôi gia súc lớn, hai người đàn ông giúp một phụ nữ ốm yếu ra ngoài để quan sát chúng tôi. Cô ta bị liệt một phần, và gần như bị mù. Cô ta chỉ có nói hay đứng dậy được rất khó khăn. Thật đáng thương. Cô ta không quá 45 tuổi. Họ nhìn chúng tôi một cách đầy hy vọng như muốn nói "Các ông có thể chữa cho cô ấy không? Chúng tôi đã thử mọi cách. Các ông có thể giúp không?"

 

Ghi chú:

(1) Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm 'Phương Tiện' Thứ Hai - http://www.dharmasite.net/KinhPhapHoa1.htm#4

Căn độn ưa pháp nhỏ.
Tham-chấp nơi sinh-tử
Nơi vô-lượng đức Phật
Chẳng tu đạo sâu mầu
Bị các khổ não loạn
Vì đó nói Niết-bàn.

 

Hằng Thật - Ngày 19 tháng 7, 1977

Không có những công việc học tập nền tảng thì chẳng có lễ tốt nghiệp

 

Những trạng thái hư vọng: Tán loạn.

Ngày hôm nay, có một cảm nhận đang ở bên trong một cột không khí trong suốt bay lên chừng mười lăm mét bên trên đầu và quan sát khắp mười phương trong lúc đang lạy tên của Kinh. Khi tôi đi ba bước, tôi cảm giác cơ thể và tâm trí mình biến thành pha lê – vô hình, nhưng trái tim thì đang tụng niệm và ở chính giữa trung tâm đang phát sáng đỏ chói. Cảm giác trống rỗng.

Cả hai trạng thái hư vọng này được mang đến bởi sự cố gắng của tôi muốn ngừng tâm trí của mình lại. Làm thế nào mà Bồ tát có thể chuyển hoá mọi tư tưởng ô nhiễm thành Bồ đề là một sự kỳ diệu đối với tôi! Đây là công việc của những trí huệ xuất thế và không liên quan gì đến một kẻ phàm tục giống như tôi, một kẻ mà thậm chí còn không thể nhận ra pháp của bữa ăn trưa là bình đẳng, không thật sự thấy được như vậy. Những người mà nói rằng sự Giác ngộ là ngay lập tức (đốn ngộ), thì họ đang nói về một số người có tâm linh mạnh mẽ đã buông bỏ ngũ dục và thậm chí không chấp vào cả cuộc sống. Đó là một công việc lâu dài và vất vả.

Nó là ngay lập tức cũng như nhận được tấm bằng đại học ngay lập tức. Sau bốn năm học tập chúng ta bước lên khán đài để nhận tấm bằng tốt nghiệp đại học ngay tại ch. Nhưng nếu không có tất cả những công việc học tập nền tảng thì cũng chẳng có lễ tốt nghiệp, chẳng có gì để ăn mừng.

 

Hằng Triều - Ngày 19 tháng 7, 1977

Anh ta giữ lấy đám trẻ nhỏ


Một người nông dân nói tiếng Tây Ban Nha đã quan sát chúng tôi khoảng một tiếng đồng hồ từ chiếc xe tải nhỏ trong khu rừng Bạch Đàn (Eucalyptus). Khi chúng tôi tới gần, anh ta bước tới, “Công giáo hả?”

“Hả?” Tôi hỏi.

“Các ông là người Công giáo à?”

“Không”, tôi đáp lại, “Phật tử”.

“Hả?” anh ta hỏi.

“Những nhà sư Phật giáo”. Chúng tôi nói chuyện vài phút mà chẳng ai trong chúng tôi hiểu gì nhiều. Nhưng điều đó không quan trọng. Anh ta đã thấy điều gì đó và muốn chúng tôi biết. “Tôi không uống rượu, không hút thuốc, không khiêu vũ, không nói dối, không dối gạt, và không giết hại”.

“Chúng tôi cũng vậy”, tôi nói.

“Vị Thượn Đế nào?” anh ta hỏi. “Ở đâu?”

Tôi đặt tay lên tim mình. Anh ta cũng đặt tay lên tim và mỉm cười “Cũng vậy”. Anh ta đi về phía chiếc xe tải chở đầy bắp cải và những đứa trẻ vui vẻ, mang cho chúng tôi nhiều bắp cải. Chúng tôi nhận một bắp cải và một đô la cúng dường. Anh ta giữ lấy đám trẻ.


“Lìa các dua dối lòng thanh-tịnh
Thường thích từ-bi tánh hoan-hỷ” .

Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thế Giới Thành Tựu
 

Sau đó, tôi có ý tưởng rằng điểm cốt yếu về Đạo Phật có thể được diễn đạt bằng kịch câm, không lời. Nếu tôi không thể làm vậy và giao tiếp với người nông dân, những người không nói ngôn ngữ của tôi, thì tôi đã không “có được” điều đó. Tôi đã soạn một vở kịch ngắn và thử diễn cho thầy Hằng Thật xem. Tập trung chung quanh ngũ giới và tìm Phật tánh ở bên trong – “nhất thiết duy tâm tạo”.

Lạy xuyên qua một dãy những người tài xế xe tải đang cầm bảng đình công đứng cản đường và một viên cảnh sát đi xe mô tô, đeo kính mát đứng bất động.

Hai người đàn ông Việt Nam dừng lại, bước tới và mỉm cười, “Ồ, chúng tôi rất vui mừng khi được gặp các vị sư Phật giáo. Các thầy xây chùa ở đây à?” Họ hỏi và chỉ tay về phía cánh đồng trống mà chúng tôi vừa dừng nghỉ.
Nhiều cảnh sát hơn – rất thân thiện. “Chúng tôi có thể giúp được gì chăng?” “Ồ, Phật tử! Chúng tôi thật sự ngưỡng mộ các ông”. “Chúng tôi có thể giữ bản thông cáo không, có rất nhiều người ở trạm cảnh sát muốn biết nhiều hơn về việc các ông đang làm”. “Các ông có thời gian nói chuyện không? Chúng tôi không muốn làm gián đoạn hay làm phiền các ông”


“Cảm ứng Đạo giao nan tư nghì…”

Đại Bi Sám.



“Lạy để xóa đi những khó khăn và vấn đề của chính bản thân – để giải thoát mình ra khỏi mọi lỗi lầm và những lề lối thói quen xấu”.

Hòa Thượng Tuyên Hóa.
 

Khi những thứ đó đi rồi, thì khi ấy, quí vị mới đang giúp thế giới và cống hiến cho nền hòa bình cùng chấm dứt đau khổ. Quý vị lạy để tự lo cho mình và như hế không phải phiền người khác.

Câu hỏi: “Ông có tin vào Thượng Đế không?”

Trả lời: “Có. Phật tử tin vào tất cả và chẳng gì cả. Họ chủ yếu tin vào điều mình làm, chứ không phải điều mình tin, đó mới là quan trọng. Đó là lý do tại sao chúng tôi nói “chẳng tin gì cả” bởi vì chúng tôi đặt niềm tin vào thực hành. Quý vị đi lên hay rơi xuống, được cứu rỗi hay ‘mất đi’, nó nằm ở hành vi của quý vị và không một lời nào hay niềm tin nào sẽ giúp được nếu như quý vị làm điều tà ác. Bất kể là quý vị tin vào chư Phật, Chúa Trời, chúa Jesus hay chẳng tin vào ai cả - nếu quý vị làm điều thiện thì quý vị sẽ có lại điều đó. Để được nhận, quý vị cần phải biết cho đi”.

Một người phụ nữ từ một quán rượụ bước tới và nói, “Mấy cậu bé này đang làm gì thế?” Tôi giải thích và bà ấy lấy tay che miệng, hổ thẹn.

“Tôi xin lỗi vì đã thiếu tôn kính, tôi đã không biết rằng các ông là làm việc thật sự”.

Tôi nói với bà ấy rằng chúng tôi “đang cố gắng tác động tới mọi người để được hạnh phúc và bình an”, bà ấy nở nụ cười lớn và nói, “Cầu phúc lành cho các ông”. Mọi người từ quầy bar đang quan sát và chờ đợi bà ấy quay trở lại để biết ai đã nói đúng về chúng tôi.


“Khi một người rộng lòng giữ những giới luật này, thì giống như một người mà trước kia bị mắc kẹt vào chỗ tối, nay bỗng chợt tìm thấy ánh sáng; họ như người nghèo thiếu vấp vào của báu trước mặt; như kẻ tàn tật nay hoàn toàn được bình phục; như tù nhân cuối cùng cũng được ngày tự do”

Lới tựa Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới
 

“Mẹ tôi trông thấy các ông hằng ngày khi bà đi làm, vì thế chúng tôi mang tới biếu các ông một chút trái cây”. Rất nhiều câu hỏi và cuối cùng, “Chúc vui vẻ” (Không thật lòng).

“Chúng tôi vui mà!”

“Các ông ?”

“Đúng thế, chúng tôi rất hạnh phúc. Khi quý vị từ bỏ lđiều giả và tìm thấy sự thật –kiểu hạnh phúc đó. Không thể hơn thế được!”.

Ba chiếc bánh mì kẹp thịt từ một người đàn ông rất chân thành. Tôi không thể từ chối. Anh ta rõ ràng là đã nhịn ăn để mua chúng. Phải làm gì đây? Rồi ngay lúc đó, một người đàn ông đã nói chuyện với chúng tôi đêm qua lái chiếc xe tải đi tới.

Peter làm nghề lắp đặt các cửa treo nhà để xe và chưa ăn trưa. Vấn đề đã được giải quyết. “Các ông đang theo đuổi những gì mà mọi người đang tìm kiếm – tâm bình an chân thật”, anh ta nói.

Những đứa trẻ trên con đường Hueneme: buổi chiều hè nóng nực, những chiếc chân trần lấm lem chạy tới siêu thị mang theo 5 và 10 xu, 8 lần một ngày, chở đôi trên chiếc xe đạp, những đứa chị lớn tuổi hơn quán xuyến và “chăm sóc” em trong khi cha mẹ làm việc. “Các em về nhà ngay lập tức không thôi chị sẽ quất thật mạnh vào mông bây giờ, nghe chưa!” Kem đây, “Này Tony không lấy cái đó”. “Này Tubs” và “Bù Nhìn đến”. Những câu hỏi và cuộc diễn hành đi theo sau của “Mấy chú khỉ Phật” – một số em nhỏ cố gắng lạy để chạm vào da chúng tôi để xem nó ra sao. Số khác thì cố gắng bắt chước niệm “Num o da bung…” (1) Những người ngưỡng mộ thì dọn đá và miểng chai ra khỏi đường đi của chúng tôi.

“Này Tony đừng lấy cái đó!”, một giọng nói nhỏ bé cất lên lần nữa – chỉ cao chừng 75 cm, cậu bé đứng chắn đường tôi, chống tay ngang hông một cách ngang nghạnh (cậu bé 4 tuổi) – “Tony, đừng lấy cái thiệp đó, tao nói rồi!”. Ngay cạnh cậu bé đó là người bạn nhỏ yên lặng Tony đang chờ đợi đến lượt lấy tấm thiệpcard (thiệp về Kim Sơn Thánh Tự và Vạn Phật Thánh Thành).

Một người đàn ông trong chiếc xe hơi lớn "đi dạo” tới. “Các có ông được trả tiền không?”.

“Chỉ ở bên trong, là điều đáng kể”.

Anh ta mỉm cười và gật đầu, lái xe đi khuất.

“Hẹn gặp lại các sư sau nhé”; tiếng trẻ em mờ nhạt dần, “Ê, ở đây có một chiếc xe bán kem”. “Mày nhát không dám đứng gần họ, ha ha!”. “Không có!”, “ Có!”, Không có…
 

 

Hằng Thật - Ngày 20 tháng 7 năm 1977

Thầy chỉ cho ta một lối thoát
 


Phải, thưa ông, ông gieo những hạt giống và thu hoạch vụ mùa của mình. Không ai chia sẻ thu hoạch đó; không ai quan tâm đến điều đó chỉ có thầy của ông.

Nếu quý vị lắng nghe những lời hướng dẫn của thầy mình và làm theo những gì thầy của quý vị dạy bảo, mọi lúc, thì sẽ có một lối thoát cho vụ thu hoạch nghiệp chướng của quý vị. Nhưng…

Quý vị phải làm như những gì thầy dạy, mọi lúc. Đừng giải đãi nếu không quý vị sẽ sẵn sàng cho những cú đấm bọc thép to lớn mà quý vị phải chuốc lấy.

Quý vị đang sa lầy trong khổ đau. Vị thầy sẽ chỉ cho quý vị lối thoát ra khỏi nỗi khổ đau đó. Một khi quý vị đã quyết định rằng quý vị thật sự muốn rời bỏ nó, quý vị có thể lắng nghe những điều được dạy bảo, quý vị có thể đi theo ánh sáng đang chiếu soi từ phía bờ bên kia, ấm áp, khô ráo và an toàn hoặc là quý vị có thể quay lưng và rơi trở lại biển khổ. Đó là lựa chọn của quý vị. Và điều cuối cùng quý vị có thể nói về nó là, trong bất kỳ tình huống nào, không ai có thể cứu quý vị ngoại trừ chính bản thân quý vị mà thôi. Không ai có thể làm được điều đó và cũng không ai sẽ làm điều đó; Chư Phật chỉ đơn giản chỉ bày cho con đường, tự thân quý vị phải bước đi trên Con Đường (Đạo) đó. Không có liên quan đến bất cứ ai cả.

 

Hằng Triều - Ngày 20 tháng 7 tháng 1977

Đến thời hạn phải hoàn thành rồi, em ơi!



Năng lượng và “ánh sáng” của quý vị không bị chiếm đoạt bởi bọn quỷ nhơ nhớp, bị hút ra như
thế, chúng bị mất đi là do chính quý vị. Chúng thoát ra ngoài theo đúng nghĩa đen của nó.

Chúng không bị lấy đi.

Đi bộ vào thành phố Oxnard sau những ngày ở bên ngoài, giữa bốn bề mênh mông trong sự tu hành tương đối yên lặng. Tôi đã làm gì? Giống như vùng Viễn Tây xưa khi “những anh chàng cao bồi trẻ tuổi” cưỡi ngựa vào thành phố Dodge sau cả tháng phiêu bạt đó đây và có một trận nổi giận lôi đình. Tất cả những năng lượng đã được dồn nén tích tụ đó, giống như trái cà chua chín nẫu, lõng bõng nước và rơi lộp bộp! Tiêu phí. Cái đó gọi là “Tu hành kiểu cao bồi”. Xây nó lên rồi thổi bay nó đi.

Vì thế, tôi đã lạy vào thành phố Oxnard sẵn sàng (Cách làm đó là – nhìn về phía trước, ngóng đợi thay vì tùy duyên và bất biến) để cho đi và được nhận lại. Và tôi đã bị lừa. Hay nói đúng hơn là tôi đã cho đi nguồn “khí” (năng lượng) đã được tích lũy một cách cẩn thận giống như cho đi những nụ hôn gió trên chiếc xe diễu hành. Thật ngu ngốc!

Hằng Triều bị che mù bởi cái “tôi” của mình.

 

Nếu quý vị thật sự muốn làm vài việc tốt đẹp, thì đừng bỏ phí đi những nguồn năng lượng đó nhưng hãy ảnh hưởng tích cực đến những người khác để họ hồi quang phản chiếu, để chính họ tự tu hành. Bằng cách nào? Bằng chính sự tu hành của quý vị.

 

Một sai lầm khác, một bài học khác – một bài học tốt, bài học này. Một bài học không được quên.

Chúng tôi nhận được rất nhiều lời mời cho “một bữa ăn nóng hổi ngon lành và nơi để tắm, nơi để nghỉ trên bãi biển và bất kỳ điều gì mà chúng tôi muốn”. Mọi người không thể tưởng tượng chúng tôi đang thích thú sự tu hành khổ hạnh. Chúng tôi tu hành càng khổ hạnh thì nó lại càng dễ dàng đạt được bấy nhiêu.

Chúng tôi tu hành càng dễ duôi bao nhiêu thì càng khó đạt được bấy nhiêu.

 

Tạm dịch:

“Nếu tâm còn vướng vào những thứ hời hợt và nhỏ nhặt và bị dính mắc vào thực tại, thì sẽ không thể thể nghiệm với điều mà chư Phật đã chứng ngộ được”.

Kinh Hoa Nghiêm.

 

Một người phụ nữ đang cười lớn ngồi trong xe tại một giao lộ, “Này, tôi đã trông thấy các ông lâu rồi. Tôi nhìn thấy các ông từ hồi còn tận Santa Monica”. Giống như những người bạn cũ. Đạo, con đường, là sự tự do duy nhất. Trên hành trình của chúng tôi, nơi duy nhất mà không thuộc sở hữu hay bị hàng rào ngăn mà mọi người ai cũng có thể sử dụng mọi lúc là đường, là đường phố. Quý vị không cần giấy cho phép hay giấy chứng nhận nào để đi trên những con đường. Đạo là của mọi người và cũng không phải của bất kai. Nhưng quý vị phải tiếp tục tiến bước. Ngay khi quý vị bị dính mắc hay dừng lại thì quý vị không còn ở trên đường, ở trong Đạo. Dừng lại càng lâu bao nhiêu thì quý vị càng có nhiều bám chấp bấy nhiêu và chằng bao lâu sau thì quý vị có một địa chỉ, điều đó cũng được, miễn là quý vị đừng quên mất Đường về nhà.

Hai cậu bé cưỡi trên một chiếc xe đạp quá lớn, “Này, này! Lạy lạy – lạy lạy lạy. Cầu nguyện, cầu nguyện– Cầu nguyện, cầu nguyện, cầu nguyện!”.

Câu hỏi: “Các ông đang cầu nguyện cho ai vậy?”

Trả lời: “Cho mọi điều và mọi người. Chúng tôi cầu nguyện ‘để từ bỏ những thói quen xấu, để loại trừ những vấn đề rắc rối, để làm sạch bản thân chúng tôi nhờ đó chúng tôi có thể đem lại lợi ích cho người khác’. Bằng cách làm như vậy, chúng tôi đang cầu nguyện tới thực thể tinh thần cao hơn đang ở bên trong tất cả mọi vật – cầu nguyện cho trí tuệ và lòng từ bi vốn có sẵn của quý vị.

Nhưng chúng tôi không cầu nguyện để ‘được’ hoặc đẩy trách nhiệm lên thiên đàng. Cầu nguyện để loại bỏ sự ích kỷ. Rồi cả thế gian sẽ được lợi ích. Đó là cách nó hoạt động”.

Bản chất của mọi sự việc được thông hiểu qua thực hành.

Nói thì giống như đứng trong xi măng đang dần đông cứng.

 

Tony Joseph của tờ báo The Ventura Star Free Press hôm nay đi ra ngoài và tản bộ một mình. “Đến thời hạn phải hoàn thành rồi, em ơi!”. Cuộc phỏng vấn hoàn tất với cây bút chì giắt thêm sau tai.

Ted Nauman của tờ báo The Press Courier đi ra ngày hôm qua. Thật là tương phản. “Ông có thời gian cho một cuộc nói chuyện không?” anh ta hỏi một cách lịch sự bằng một giọng mềm mại từ phía sau một cái cây. So với Tony, nhảy vọt ra khỏi xe và hét lên, “Được rồi, thế ai trong các ông không nói chuyện?”

 

 

Hằng Thật - Ngày 17 tháng 7, 1977

Ông ấy là một người tốt, tử tế, ngay thẳng và sợ Phật

 

Hãy thận trọng với tự do. Quá tự do có thể giết chết quý vị. Nếu sự tự do của quý vị không phải là kết quả của việc giữ kỷ luật, làm việc chăm chỉ, có được qua một thời gian dài, thì nó có lẽ không phải là tự do gì hết. Nếu sự tự do của quý vị đến dễ dàng và liên hệ đến việc sử dụng các vật liệu, các đồ vật hoặc các công cụ ở bên ngoài thân, bên ngoài trái tim, thì rất có thể là sự tự do của quý vị sẽ tốn nhiều chi phí, không thỏa mãn và sẽ chứng minh là một chuỗi xích chân nặng nề không lâu sau đó.

Quan sát

Những người đàn ông mặc áo trắng sạch sẽ ở trong trang trại, nói chậm rãi, ăn chậm, ngủ sâu, làm việc cả ngày với gia đình bên cạnh họ, cùng nhau về nhà khi trời tối. Những người phụ nữ mặc những bộ quần áo màu sáng, nói chuyện với nhau, mỉm cười chậm rãi, chăm sóc gia đình, làm việc vất vả cả ngày và cùng nhau về nhà lúc tối. Lũ trẻ có đôi mắt to, khuôn mặt cởi mở, ít nói, nhiều ánh sáng. Họ có được sự tự do của mặt trời.

Trong thành phố những người đàn ông mất chỗ đứng. Họ học cách nói chuyện nhanh và ăn uống nhanh, ngủ không yên, làm việc xa gia đình và ra ngoài vào ban đêm để tìm ma quỷ. Phụ nữ thì học cách nói chuyện với đàn ông, cười theo nhiều kiểu khác nhau, tiết kiệm thời gian và công việc bằng các máy móc và cách suy nghĩ như thế nào về mọi việc cần làm khi đàn ông đi rồi. Trẻ em thu hẹp những đôi mắt, học những thủ đoạn, những lời lẽ thô lỗ, và học làm thế nào để che giấu ánh sáng của mình. Họ có sự tự do của mặt trăng.

 

“Hãy nhìn hai người này. Ồ, tôi sẽ không làm như thế vì tình yêu hay vì tiền đâu”.

Đúng thế, thưa ông, chúng tôi cũng vậy. Cũng chẳng làm thế vì danh tiếng, hay vì đồ ăn hay vì giấc ngủ. Quý vị có thể tưởng tượng được ai đó nói rằng, “Ông ấy là một người đàn ông tốt, tử tế, ngay thẳng, sợ Phật?” Chẳng ai sợ Phật cả. Nó có thể giống như là sợ sự chuyển động của mặt trời và mặt trăng, thời gian và hư không. Tại sao tôi không phải là người Cơ Đốc giáo? Tôi đã tốt nghiệp và mất đi sự sợ hãi về tính bất diệt rồi.

Một bài kệ của Hòa Thượng được gọi là “Hồi quang” đã luôn có một ý nghĩa đặc biệt đối với tôi và hôm nay tôi lại hiểu nó rõ ràng hơn. 

Chân thật nhận lỗi mình

Đừng tìm kiếm lỗi người

Lỗi người là lỗi mình

Đồng thể là Đại Bi.

 Hòa Thượng Tuyên Hóa

Khi tôi từ bỏ cái mà tôi đã làm việc chăm chỉ để bảo vệ qua những năm tháng này, chỉ khi ấy tôi mới có thể gia nhập vào thế giới. Không có cái tự ngã, thì không có sợ hãi – chẳng còn có gì để mất. Đây gọi là đồng thể, là một chất là tất cả chúng ta được hình thành nên từ đó. Tất cả những mối quan tâm sai lầm cho một loạt những năng lượng tạo những mặt nạ giả, sẽ được dùng tốt hơn khi quan tâm tới tất cả chúng sanh như quan tâm tới chính bản thân mình – như thế gọi là Đại Bi và đó là chân lý.

Giữ nó, thì nó ở,

Bỏ nó, thì nó đi.

Khi đi nó không báo,

Khi về chẳng cho hay.

Nó đến đi nào biết.

Nó được gọi là Tâm.

Mạnh Tử

 

 

Hằng Thật - Ngày 20 tháng 7, 1977

Từ chối một chút thỏa mãn cho cơ thể mình

 

Nước sau giờ ngọ.

Có đôi khi, lúc trời đã xế chiều và việc lạy trở nên thật sự mệt mỏi và tôi nhận ra điều đó, tôi có một số suy nghĩ về việc uống một chút nước hồi sức như là nước cam hay trà mật ong và rồi tôi nhớ rằng tôi đã phát một lời nguyện là chỉ uống nước lã khi quá ngọ. Tôi đã giữ lời nguyện này khá tốt kể từ khi lập nguyện và tôi nhớ khi còn là cư sĩ sống ở Kim Sơn Thánh Tự, tôi là một tay uống cừ khôi với tất cả các loại đồ uống. Đặc biệt tôi đã quá dính mắc vào những thứ đồ uống có đường và tôi để ý thấy rằng những gì tôi đưa vào cơ thể mình sau 4 hay 5 giờ chiều đã có ảnh hưởng thật sự tới việc tu hành và sự tập trung của tôi vào buổi giảng Kinh tối. Thông thường những gì tôi uống cũng sẽ chi phối toàn bộ ngày tiếp theo, cũng như trước đây những đồ uống có chất rượu thường khiến tôi bị ô nhiễm trong hai hoặc ba ngày sau đó. Biết được tính mình là nước, tôi nhận thấy những gì tôi đã uống sẽ làm vẫn đục tôi và có tác động thật sự tới nhận thức và sự tập trung của tôi. 

Thanh tịnh dường như là một mục tiêu đáng giá vì thế tôi quyết định hạn chế những đồ uống, chỉ uống nước lã sau bữa trưa (thực tế là đến tận nửa đêm và như thế là cả 12 giờ đồng hồ nhịn nước) (Thuốc thì được cho phép).

Cám dỗ để phá vỡ lời nguyện này trên cuộc hành trình lạy này quả là mạnh, có vài lần, nhưng tôi lại nhớ lại mục tiêu ban đầu và thế tôi lại giữ vững lời nguyện. Có những lúc tôi có cảm giác giống như mình cần muối vì tôi đã đổ rất nhiều mồ hôi suốt cả ngày. Vì thế, tối đến, tôi thêm một muỗng muối vào ly nước nóng. Rồi tôi lại nhận ra rằng điều này cũng là hành vi vi phạm lời nguyện. Nước muối, khi uống để cung cấp năng lượng phấn chấn, thì cũng có thể như là một ly sữa trộn cà rốt. Chẳng khác biệt. Vì thế, tôi lại từ bỏ muối và quay trở lại lời nguyện. Hôm qua, tôi cảm thấy bị cám dỗ trở lại vì có rất nhiều nước cam sắp bị hư. Nhưng tôi nghĩ, “Chịu khổ một chút” là điểu chính.

Từ chối một chút thỏa mãn cho cơ thể mình chính là việc tu hành cần có. Làm điều này chân thực hơn thì sau đó tôi nhìn ra rằng đó chính là ý nghĩa của khổ hạnh – để có công đức hồi hướng và để có cái gì đó cúng dường lên chư Phật.

 

 

Hằng Triều - Ngày 21 tháng 7 năm 1977

Quái sư



Câu hỏi:
Chắc hẳn là đau đớn lắm. Ý tôi là ông có bị đau kinh khủng lắm không?

Trả lời: Đau đớn phát xuất từ cái tâm cứng ngắt– từ việc bị phiền não. Phiền não giống như băng. Nó cứng ngắt, không uyễn chuyển và ngăn giữ quý vị không luân lưu được. Nếu tâm trí của quý vị không bị phiền não, thì đó là nước thoáng và mềm mại.

Trong nước thì không đau đớn. Băng đá làm ta đau đớn.

Câu hỏi: Làm sao mà việc này có thể làm cho các ông hạnh phúc được – trải qua tất cả s đau đớn này?

Trả lời: Chúng tôi đang rất hạnh phúc đến nỗi không hay biết điều đó.

(Tôi muốn nói vài điều nữa nhưng bị lúng túng khi cần nói).

Tại một trung tâm thương mại, một cô gái trẻ tựa lưng vào tường trong tay cầm điếu thuốc với tư thế chụp ảnh trước kia của thuốc lá Marlon Brando: “Này, ông, ông mua cho tôi 6 lon bia nếu tôi đưa cho ông tiền được không?”

“Không. Tôi không thể đến gần thứ đó”.

“Quá là thất vọng”.

Dạo này, mọi người dường như không giống như con người đối với tôi, ý tôi là giống như mọi người xưa kia. Cảnh vật và các thành phố, xe hơi và những lời nhận xét, thời tiết và những con bọ - tất cả những thứ này trở nên đồng nhất và ít khác biệt hơn. Thế nhưng con người dường như thường có đầy những đặc điểm và hương vị khác nhau – họ nổi bật lên trong một s quan trọng đặc biệt so với mọi thứ khác. Thật khó giải thích nhưng tất cả mọi thứ, thậm chí con người đang được hòa trộn thành một cụm bằng phẳng thật tuyệt vời này. Cái tuyệt vời đến từ cái gì khác ở đằng sau sự đồng nhất của mọi vật. Không có cái gì nhiều hay ít hơn; thật haykhông thật; tốt hay xấu về điều đó. Nó đơn giản chỉ xảy ra, gần như không thể cảm nhận được. Bằng phẳng đồng nhất ở khắp mọi nơi. Một mặt, nó giống như ở trên một hành tinh khác và đồng thời càng ngày càng có nhiều người trông quen thuộc hơn – gần như là bà con có quan hệ huyết thống vậy. Mọi người đến cúng dường và tôi tự nói với mình, “Mình đã gặp anh ấy/ cô ấy trước đây ở đâu?”

 

Nhét mình và co người ngồi bên trong khoang của chiếc xe Plymouth củ kỷ trên bến cảng Hueneme, miệng lẩm nhẩm niệm Phật và lắng nghe Kinh Hoa Nghiêm, tôi chưa bao giờ thấy tự do đến thế.

Nếu chính bản thân tôi thật sự dụng công thì tôi mới có thể sẵn sàng thật sự trở thành đệ tử quy y của Hòa Thượng khi chúng tôi tới Vạn Phật Thánh Thánh Thành và bắt đầu học tập.

Mấy đứa trẻ lớn tuổi hơn nói với mấy đứa trẻ nhỏ rằng chúng tôi là những con quái vật. Chúng hoảng hốt . Nhìn chòng chọc từ đằng sau những chiếc xe và xung quanh các góc phố khi chúng tôi lạy qua một khu vực thương mại, có ba đứa nhỏ cuối cùng đã lấy hết can đảm tới kiểm tra chúng tôi. Hai đứa nhỏ nhất thì núp đằng sau một bé gái mũm mĩm đang đi trên chiếc xe đạp như thể là chúng sẵn sàng tăng vận tốc và lướt đi rất nhanh trong trường hợp những con quái vật giở trò gì đó.

“Có phải việc này là để cho hòa bình?” cuối cùng cô bé hỏi.

“Đúng vậy”, tôi trả lời. Thoải mái một chút – theo nguyên tắc thì những con quái vật không lạy vì hòa bình. Hai đứa kia vẫn còn hoang mang.

“Các ông có tên không?” Tôi với lấy cái túi để lấy một trong những tấm danh thiếp của chúng tôi để đưa cho cô bé. Hai đứa trẻ nhỏ hết hồn bỏ chạy, “quái vật đang đến, quái vật đang đến”, giọng nói hoảng sợ vang ra từ phía sau mấy bức tường. Một đứa to khỏe sau đó quay lại cúng dường nước và tên của chúng tôi:

“Quái sư Thật và Quái sư Triều” (1)

 

Một người thanh niên tình cờ vừa chạy xe ra khỏi trung tâm thương mại ngay khi chúng tôi tiến tới. Anh ta dừng lại và quan sát chúng tôi. Sau những câu hỏi thông thường, anh ta muốn biết nhiều hơn về việc tu đạo và thật sự hứng thú khi nghe đề cập là tại Vạn Phật Thánh Thành chúng tôi đã cố gắng xây dựng một ngôi nhà cho những người cao niên và dưỡng đường cho người bịnh sắp chết. “Ý ông là họ không phải tới những ngôi nhà dưỡng lão cộng đồng hiu quạnh và bị bơm đủ loại thuốc sao?” anh ta hỏi.

“Phải. Vì thế, người ta có thể ra đi trong sự tương trợ của cộng đồng dám nhìn thẳng vào cái chết và trgiúp một phương cách tâm linh để đối mặt với sự chết – chứ không phải là đầy sợ hãi”.

“Đạo Phật dạy cho ông điều gì về cái chết?’

“Tôi không thể nói với anh. Căn bản là anh phải tự mình nhìn vào nó

“Bằng cách nào?”

“Chúng ta có những phương pháp mà đã có từ hơn 3000 năm để nhìn vào vấn đề sanh tử”.

Đứa trẻ ngồi ở ghế sau: “Ba ơi, đi thôi”.

“Chờ chút, ba cần phải hiểu cái này mới được. Đây thật sự là một điều gì đó”.

Đứa trẻ: “Ồ”

“Tại sao ông lại tới tu viện Kim Sơn Thánh Tự và trở thành nhà sư?”

“Tôi muốn hiểu tận gốc của mọi vật”.

“Trước đây ông làm gì?”

“Cũng giống như bao người ở cùng trang lứa với tôi: đây, đó, khắp nơi nhưng chưa bao giờ thật sự ở nhà. Luôn luôn tìm kiếm cái…”

“Tìm kiếm cái gì?”

“Tìm cách nào đó để đi tới nơi là chân thực và bình an. Tìm kiếm những câu trả lời của câu hỏi như: Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ đi về đâu? Tôi là ai?

“Rồi sao nữa?”

“Rồi, trong đạo Phật có 84,000 Pháp môn để tìm hiểu kỹ những câu hỏi này và chúng đều đem lại kết quả!”

“Thật ngoài sức tưởng tượng! Điều này thật sự không thể tin nổi. Thật sự có một nơi như vậy sao? Ý tôi là mấy ông thật sự làm như vậy, có phải không?”

“Có. Chúng tôi cố gắng hết sức”.

Người đàn ông đó chân thành và trung thực. Anh ta cho thấy có rất nhiều câu hỏi và giá trị tương tự mà rất nhiều người, trong đó có thầy Hằng Thật và tôi cũng có. Và anh ta cũng rất vui mừng giống như bao người tôi biết khi họ phát hiện ra rằng có một cách và một nơi để làm điều tốt đẹp cho mọi chúng sanh và cũng được giác ngộ nữa. “Thật sự có một nơi như vậy sao?” toàn khuôn mặt và người của anh ta sáng lên và lấp lánh không thể diễn tả nổi.

“Chúng ta có thể đi chưa Ba?”

“Hả? Đi hả? Được rồi, chắc chắn rồi (như chợt giật mình). Chúc các ông may mắn”.

“Cảm ơn, cũng chúc anh như vậy”.

 

Ba cậu bé lượm vỏ chai: “Này ông, các ông được gì khi làm vậy?”

“Chúng tôi không được, mà chúng tôi cố gắng cho đi. Chúng tôi cố gắng từ bỏ những thói quen xấu và tính ích kỷ đ chúng tôi có thể cho đi và giúp đỡ”.

Chúng đặt những cái chai rỗng không xuống đất. “Ông có ngủ không?”

“Chắc chắn rồi, chúng tôi ngủ nhưng giống rất nhiều các vị ni và sư khác, chúng tôi ngủ ngồi, không nằm xuống”, tôi trả lời.

“Như thế đ lừa mọi người nghĩ rằng các ông đang cầu nguyện?” một đứa nói vẻ chân thành.

“Không phải. Đ chúng tôi không muốn ngủ quá sâu khiến chúng tôi không thể thức dậy được. Đ chúng tôi không bị lạc lối trong những giấc mơ”.

“Phải mất một thời gian thật sự rất dài để tới được Thành Phố một ngàn vị Phật”.

“Không, Mười ngàn vị Phật”, bạn của cậu bé chỉnh lại.

“Tôi từng có một người bạn cũng trạc tuổi các em. Cậu ấy thu lượm đủ chai trong sáu tháng để mua một chiếc xe đạp mới”, tôi nói với chúng.

“Thật sao?” chúng kêu lên.

“Chuyến lễ lạy của chúng tôi cũng vậy. Nếu các em thật sự muốn một việc gì rồi và chăm chỉ làm hướng về nó – cứ từng một cái chai và một lạy – các em sẽ có được việc đó”.

Một người đàn ông bước tới và nói thẳng thắn, chân thật: “Tôi nghĩ điều các ông đang làm thật sự tuyệt vời! Cuộc đời tôi thay đổi ngay kể từ khi tôi đọc về các ông”.

Một nhóm mấy cậu bé khác tới tấp đưa ra cho chúng tôi những câu hỏi, “Nhân tiện”, chúng tôi hỏi, “Các em thường làm gì?”

“Ồ, chẳng gì nhiều. Chúng cháu đạp xe cả ngày và đi bơi”.

Rồi một em trong số chúng hỏi, “Thế các nhà sư có bơi không?”

“À, chúng tôi đã từng bơi và đạp xe cả ngày nhưng giờ thì chúng tôi làm việc để giúp những người khác và đền ơn cha mẹ”, chúng tôi trả lời. Một thời dành cho tất cả mọi thứ và một thời để buông xã.

 

Tuần ẩn tu đó trong một tu viện mà cha tôi đã tham dự khi tôi còn nhỏ vẫn chưa hoàn thành . Ông đã không bao giờ được quay tr lại và theo đuổi những gì mà ông tìm thấy ở đó, bên trong mình, trong cái tuần ngắn ngủi rời khỏi công việc và gia đình của mình đó. Nếu tôi có thể giúp trong việc thành lập và duy trì một nơi (một đạo tràng), nơi mà mọi người giống như cha tôi có thể tìm thấy bình an trong tâm thì cuộc đời tôi sẽ không bị uổng phí.

 

Một người đàn ông to chắc, Hank, đến từ một nhóm Phật tử ở địa phương tại Oxnard: “Này các anh! Cái đó khổ cực hơn rất nhiều so với thực hành của chúng tôi”, anh ta nhận xét sau khi nghe về những khổ hạnh của tu viện Kim Sơn. Hằng ngày tôi bơi từ một đến một dặm rưỡi, cố ăn ít đi và ít thịt để lấy lại vóc người để ngồi thiền. Điều đó thật là khó”, anh ta nói.

“Nhưng anh đang làm đó thôi! Như thế mới quan trọng. Nếu có thể làm được, thì anh sẽ tốt hơn và mọi người chung quanh anh cũng vậy”, chúng tôi đáp lời. Chúng tôi nói cho anh ta biết một câu Thiền thoại “Hành khổ, tâm lạc”.

Khi rời đi, anh ấy nói, “Hãy thoải mái nhé!”.

“Không, phải chịu khó,”, chúng tôi nói.

“Ồ, phải vậy”, anh ta kết luận. “Chịu khổ thì tâm ông mới an lạc”.

Mỉm cười và vẫy chào tạm biệt.

 

Trong và xuyên suốt tất cả những phản ứng khác nhau mà chúng tôi nhận được, tôi có thể nhìn thấy chính mình đã từng làm tất cả những điều đó ở lúc này hoặc lúc khác trong cuộc đời của mình. Từ những sự giúp đỡ tới những lời nói khôn ngoan; từ những sự cúng dường cho tới những lời giễu cợt. Bằng cách nào đó, nhớ rằng dường như san bằng tất cả những phản ứng đó thành những tác động bình đẳng. Tốt, xấu, hay bình thường, chúng đều đi qua giống như những cái “tôi” khác nhau đã tạo nên chúng. Đã qua đi, đã qua đi, tất cả đi mất.

 

Kinh Kim Cang dạy rằng:

 

Nhất thế hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ diệc như điển,

Ưng tác như thị quán.

Dịch nghĩa:

Tất cả Pháp hữu vi

Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

Như sương, như điện chớp

Nên quán sát như vậy.

 

Nhìn thấy chính mình trong tất cả những lời và những lối sống này, cuộc đời đã qua của tôi quay cuống bởi “quán sát như vậy” – giống như rất nhiều những bức ảnh cũ. Trong mười nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, có lời nguyện là "Nguyện con mau về nhà vô vi.” (2)

Đó là một nơi nào đó bị chôn vùi phía dưới tất cả những bức ảnh cũ kỹ này – bộ mặt vô vi ban đầu – dễ mất đi, khó tìm thấy. Nhưng luôn luôn ở đó, chờ đợi và không thay đổi.

 

Một chiếc xe dừng lại với hai người phụ nữ lớn tuổi ngồi đằng trước, một bé gái ngồi ghế sau. Đứa bé gái đang mong mỏi đợi một tín hiệu từ phía ghế trước. Một trong số người phụ nữ ngồi phía trước là người thẳng thắn và chính trực. Trông bà ấy giống như Katherine Hepburn đang đóng vai nhà truyền giáo thời nữ hoàng Victoria – tóc cuốn lại phía đằng sau, không thả lỏng hay lãng phí cảm xúc gì c. Bà ấy gật đầu mà không nhìn, đứa trẻ hào hứng chìa tay đưa cho tôi một ít tiền. Ngay khi tôi với tay để cầm lấy, người phụ nữ ngồi ghế trước xoay đầu. Cái nhìn: họ có chân thật không?

Và bà ấy nhìn với đôi mắt thận trọng, đúng, họ chân thật và không ra ngoài để gạt người, không phải là kẻ lợi dụng trên trái tim và tình cảm của người khác, không phải là kẻ đạo đức giả. Rồi trong một khoảnh khắc, một vết nứt nhỏ ở ngay chính vẻ bề ngoài được kiểm soát này, bà ấy cho ra một con người khác mà không phải là chính bản thân bà ấy – một người mà không được phép lộ diện rất thường xuyên đặc biệt là với những người lạ. Mặt bà sáng ra và gật đầu tán thành về việc chân thành và làm một cái gì đó tốt đẹp, có ích lợi cho những giá trị chân chính. Bà ấy chỉ nói “Cảm ơn”. Điều mà bà ấy không nói lên là điều được nghe lớn nhất.

Tôi nghe nói rằng một trong những con đường đạt tới sự giác ngộ là sự hoàn hảo của việc bố thí. “Những người thực hành các hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát chỉ có họ mới có thể đạt được sự giác ngộ". (Kinh Hoa Nghiêm). Hạnh thứ ba của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát là “Quảng tu cúng dường”. Có rất nhiều người trong khi bố thí bỗng nhiên thay đổi và trở thành trẻ nhỏ. Họ thích thú và sống động với lòng tin tưởng và sự giàu có trống vắng trong một hoặc hai phút của sự không ích kỷ. Bố thí và lạy cũng rất giống nhau. Chúng tôi lạy để từ bỏ cái “bản ngã” của mình, không phải để nhận lấy cái gì đó cho bản thân mình. Người ta bố thí là để cho đi, để từ bỏ cái “bản ngã” chứ không phải để nhận được lời cảm ơn hay được ghi nhận.

Mọi người đến với những đồ cúng dường, và một vết nứt nhỏ mở ra, một trái tim đẹp, thiện lành rộng mở hiện ra trên khuôn mặt và vẻ bừng sáng. Ngay lúc đó, nếu chúng tôi lạy một cách chân thành, thì người bố thí và người lễ lạy hòa nhập, và không phải là hai mà là một. Một điều hết sức không ngờ xảy ra! Với mỗi một sự cúng dường chân thành, chúng tôi có được thấy khuôn mặt của Phật. Thật là tuyệt vời!.

 

Ghi chú:

 

(1) Nguyên văn Anh ngữ: "Dharma Monster Sure and Dharma Monster Chau". Do sợ hãi, khi đọc trên danh thiếp có ghi chữ Dharma Master (dịch từ Hoa ngữ chữ 法 師 Pháp Sư), các em nhỏ lẫn lộn giữa chữ Master (Thầy, Sư), với chữ "Monster (quái vật), hai chữ này phát âm gần giống nhau.

(2) Nguyên văn trong Đại Bi Sám:

南 無 大 悲 觀 世 音, 願 我 速 會 無 為 舍.

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện ngã tốc hội vô vi xá.

 

 

Hằng Thật - Tháng 7 năm 1977

Chỉ đi từng bước một


Hàn vá vĩnh viễn lỗ thủng.

Cho dù
cần thời gian của đời đời kiếp kiếp, quý vị vẫn sẽ vẫn chỉ đi từng bước một, trượt lại phía sau, đứng lên và lại đi tiếp.

Không có gì khác để làm cả, quý vị không tồn tại bên ngoài nghiệp và hạt giống Phật của mình. Tất cả mọi thứ khác là vô thường; trở nên tồi tệ, trống rỗng, đau yếu và không cách nào có thể bám víu vào quý vị hay quan điểm của quý vị nhìn nhận về cái tôi và thực tại.

Tất cả quý vị có thể làm là thanh lọc cái túi nước nhơ bẩn mà quý vị đã được, và lê theo, vấp váp và cứ như vậy. Đó là tất cả những gì đang có – đã từng có. Phần còn lại đã và đang là hoa ở trong không gian, bong bóng, những giấc mơ và âm nhạc từ cây đàn hạc (harp) bị hư.

Nếu quý vị có thể giải quyết con ma ở trong cái túi da của mình, đốt nóng nện cho nó thêm vài búa, đi chậm rãi và hàn gắn các vết rò rỉ, thì một ngày nào đó, quý vị sẽ đến nơi. Vào cái ngày đó, quý vị sẽ không cần quan tâm đến nó nữa.

 

 

Hằng Triều - Ngày 22 tháng 7 năm 1977

Tôi không quan trọng

 

Một con chim két kêu ré lên, ca hát trong một cái cây, chỗ chúng tôi bắt đầu lạy trong buổi sáng đầy sương mù này. Tôi không nghĩ mình đã từng nhìn thấy con chim két ở ngoài lồng. Tôi cũng không nghĩ chú chim két đã từng nhìn thấy những người như chúng tôi. Nó nhảy từng bước theo chúng tôi từ cây này sang cây khác chừng hai tòa nhà và rồi sự lư thông xe giờ cao điểm làm nó biến mất.

Đứng dậy sau cái lạy yên lặng, tôi bị vây quanh bởi mấy phụ nữ ăn mặc đẹp, đánh phấn, lăng xăng như thể họ đang trước ngày cưới hay một bữa tiệc làm bất ngờ. Họ mua đồ ăn sáng từ cửa hiệu MacDonalds cho chúng tôi.

“Sữa và bánh mì kẹp MacMuffins tất nhiên là không có thịt bằm”, một người nói giọng hối thúc, đầy hăng hái. Lúc đó là 7:30 sáng. Từ nơi đâu mà họ tới đây, ở chỗ con đường trống vắng dành cho xe tải này, vào giờ này, trong những trang phục màu rực rỡ và giày được đánh bóng, tóc mới uốn này? Thầy Hằng Thật và tôi thì lại tương phản với râu tóc không được cạo, mang theo bụi dấu ngoài đường bốn ngày qua. Khi họ đi khỏi, chúng tôi ở lại nhìn vào đôi bàn tay nứt nẻ dơ bẩn của mình, nhìn kiến, và ngửi mùi khói dầu cặn. Tôi không nghĩ mình tổng cọng nói nhiều hơn ba lời với họ. Điều đó dường như không quan trọng.

Họ có chút lo lắng. Kiểu lo lắng khi quý vị mở lòng, chân thành “buông bỏ” sau một thời gian dài bị đóng kín và sợ hãi. Sợ khi cho người ta thấy quý vị thật sự như thế nào và hy vọng mình sẽ không bị “đốt cháy” hay bị cười nhạo khi mình chân thành và hết sức thuần khiết. Và họ nhanh chóng rời đi cũng vì cùng lý do - bởi vì quý vị không thể xử trí quá nhiều việc cùng một lúc. Vì đã quá lâu nên việc trở thành tự nhiên lại cảm thấy không tự nhiên.

Thật sự là một điều rất hay đẹp khi nhìn thấy điều này ở những người cúng dường. Bị chôn vùi sâu dưới tất cả những vết bầm tím và sẹo, giống như thầy Hằng Thật và tôi, đó là một khuôn mặt chân thật, bản tính thuần khiết đầy sống động và tốt lành. Có nhiều hạnh phúc trong công việc Ba Bước Một Lạy và mỗi sự cúng dường là một bữa tiệc sinh nhật.

Những tiếng la hét to nhất và lăng mạ nhất đến từ những người bị tổn thương nhiều nhất. Chúng tôi chạm vào vết thương đang che chở cái “bản ngã chân thật” bị hành hạ và sợ hãi. Tất cả những gì chúng tôi nghe thấy khi chúng hét vào chúng tôi là “Đau quá, Ái ui!”.

 

“Lạy Cha, xin Cha nhận số tiền này”, một người phụ nữ lớn tuổi cùng với con chó nhỏ trên vai trong chiếc xe Buick to lớn. “Con cá là các cha mệt rồi phải không?”

“Hầu như chỉ là niềm vui. Nhân tiện, chúng tôi là những vị sư chứ không phải là những Cha”.

“Chúc may mắn, thưa Cha” và rồi họ đi.

 

Hai nhân viên bảo trì đường dây từ Công ty Điện Thoại cúng dường một số trái cây và nước trong giờ nghỉ của họ.

Cửa hàng MacDonalds: Một người to lớn, vạm vỡ với điếu thuốc lá lắc lư trên miệng, người tựa lại phía sau, ngón tay và bàn tay nắm lấy dây nịt thắt lưng và nói, “Các anh thật sự tin vào những gì mình đang làm à?”

(Tôi đã muốn nói rằng: “Ai có thể làm việc gì mà họ không có niềm tin vào đó?”). Trước khi tôi đáp lại, một phụ nữ bước tới bên cạnh và la mắng anh ta rằng, “Này, để cho họ yên. Họ thật sự tin tưởng vào những gì họ đang làm”.

Người đàn ông to lớn chuyển tư thế và quay sang phía cô ấy như một cậu bé và nói, “Được rồi, nào, tôi chỉ hỏi thôi mà, thế thôi”.

“Được rồi, tốt”, cô ấy nói, “Nhưng đừng khinh khỉnh thế”.

 

- Manuel, một nhân viên phụ giúp tram xăng chạy tới, “Xin chào, tôi muốn giúp các ông”.

- Một phụ nữ từ tiệm ăn Granny’s Pantry cúng dường chúng tôi bất kỳ món nào có trên thực đơn. Chúng tôi giải thích về lời nguyện sống ở bên ngoài trong chuyến hành hương và vì thế chúng tôi thật sự không thể chấp nhận. Sau đó, bà ấy cho người đầu bếp ra. “Xin chào, tôi là Matty”, và trao cho chúng tôi một túi trái cây.

- Người chơi trượt nước: “Chúc vui vẻ”, anh ta nói sau khi nói chuyện về “công việc khó nhọc”. “Không”, câu trả lời đáp lại. “Chúc khó nhọc – Có thời gian nhọc nhằn thì chính là có thời gian tốt đẹp”. “Ồ, đúng vậy”. Anh ta mỉm cười và lái xe đi khỏi cùng với chiếc ván trượt xác nhận sở thích gắn trên nóc xe.

- Một người đàn ông lớn tuổi cúng dường: “Tôi chắc chắn là các anh sẽ làm được”.

- Một nhóm mấy người nấu bếp của một nhà hàng Nhật Bản mang ra hai nắm cơm và một ít tiền, tất cả được gói gọn gàng trong giấy đã được gấp lại.
- Một toán nhân viên điện thoại
khác dừng lại và cúng dường.

 

Một khi quý vị xuất hiện trên TV và trên báo, mọi người sẽ cảm thấy gần gũi với quý vị và với những gì quý vị đang làm. Họ tới để nói lời “Xin chào” và muốn chia sẻ cuộc sống của họ với chúng tôi như thể chúng tôi là những người bạn cũ hay những người hang xóm.

Có một phụ nữ lái xe vòng quanh rất nhiều lần cùng với một thiết bị liên lạc vô tuyến trong xe và đang theo dõi các sự việc. Bà ấy gọi cho cảnh sát để nói với họ về đám trẻ em đang chơi trong khu vực giao thông đông đúc hoặc trên những con đường nguy hiểm. Bà ấy muốn chăm nom chúng tôi.

“Đây là một vài bánh mì tròn và vài thứ cho cuối tuần. Tôi sẽ đi khỏi đây và không muốn lo lắng về việc các anh đều được yên ổn”.

Một người đàn ông lái chiếc xe van tới. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy anh ta trước đây. “Hôm nay thế nào?” v.v… “Hẹn gặp lại các anh sau nhé. Cần phải tới trung tâm mua sắm trước khi bọn trẻ về nhà”.

 

“Chúa ban phước lành cho các anh. Chúa Jesus yêu quý các ông lắm. Chúng tôi cầu nguyện cho các anh, người anh em”. Tôi đã mắc sai lầm khi bắt tay trước khi nghe thấy giọng bà ấy nói. Giờ thì bà ta không buông tay mà lại quàng cánh tay kia ôm lấy tôi thay cho chúa Jesus. Tôi ngồi xụp xuống quỳ trên gối, lạy và thoát ra. Họ cho cậu bé đuổi theo chúng tôi cùng với cuốn sách nhỏ về việc dược cứu rỗi dễ dàng.

 

“Ồ, các anh thật tuyệt diệu. Chúc vui vẻ!”, một phụ nữ trẻ tuổi tựa mình ngay phía trước tôi và làm vài cử chỉ dễ thương trên chiếc ván trượt sóng và cúng dường một quả chuối – đung đưa qua lại để cố thu hút sự chú ý của tôi.

“Đã nhìn thấy các anh trên TV, thật tuyệt diệu”.

 

Một người đàn ông dừng lại trên chiếc xe tải chở rác đưa một ít tiền, “Để cho bữa trưa hoặc cái gì đó”.

Hai cậu bé (tám tuổi): “Các ông đang làm gì đó?”

“Cầu nguyện”.

“Các ông không mệt sao – suốt quãng đường từ Los Angeles?”

“Không, chúng tôi khỏe mạnh hơn”.

“Thật sao?”

“Có biết cái gì khiến các em mệt không?”

“Là gì?”

“Nói dối, ăn cắp, uống rượu, hút thuốc, giết hại, theo đuổi các cô gái. Cầu nguyện sẽ khiến các em mạnh khỏe hơn!”.

Một cậu bé đi tới và bắt đầu lạy bên cạnh thầy Hằng Thật. Đứa kia thỉnh thoảng ném đá vào cánh đồng và quan sát.

 

Người cha và con gái: “Nó muốn xin các anh chữ ký”.

“Tôi không quan trọng”.

“Chắc chắn có nếu anh xuất hiện trên TV và trên các tờ báo”.

“À, điểm mấu chốt là chuyến hành hương này đầu tiên hết là để từ bỏ những thói quen xấu của chúng tôi và các thói quen xấu đó khởi sự với tánh ích kỷ. Vì thế, nếu tôi ký tên mình thì điều đó sẽ như nói rằng, ‘Nhìn này, tôi là một nhân vật gì đó!’ Điều đó là kiêu hãnh giả tạo. Tôi không cần một sự kiêu hãnh giả tạo nữa. Tôi đang cố từ bỏ cái kiêu hãnh giả tạo này”.

“Ý anh là anh sẽ không ký cho cô bé sao?”

“Đúng vậy. Nhưng cô bé có thể lấy một trong những tấm thiệp của Tu viện”. Đưa cho cô bé tấm thiệp.

Hoan hô! Ánh mắt mở rộng trên khuôn mặt cô bé. Chuyện quan trọng! Cúng dường và sự khích lệ liên tiếp ùa tới.

 

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Thay đổi thật sự diễn ra ở trong người làm vườn

 

Trường Phật giáo.


Hỏi: Các ông đang làm gì?

Trả lời: Từ ngữ Phật giáo dùng gọi việc này là tu hành. Đó là công việc tôn giáo. Giống như chăm sóc một khu vườn trong khi cầu nguyện: quý vị cố gắng có được rau cải, nhưng không chỉ là rau không thôi, mà còn là sự thay đổi thực tế đang diễn ra trong người làm vườn, đó là mấu chốt, anh hiểu chăng?

Hỏi: Ừ, không, nhưng nó gợi tò mò. Ông đã học cách làm việc ấy thế nào? lấy vài lớp? Tới trường?

Trả lời: Phải, quý vị có thể nói rằng tôi đến trường để học những bài học về tu hành. Đó là một ngôi trường đặc biệt và những khóa học luôn có mọi lúc. Trên thực tế, một khi quý vị ghi danh học, quý vị sẽ luôn luôn ở trong lớp và mọi thứ đều là bài thi thử nghiệm.

Hỏi: Trời, nghe thật khó khăn. Ai dạy trường đó?

Trả lời: Có một người ở đó, người này đã tốt nghiệp rồi, đã tinh thông môn học này, người ấy truyền lại bằng nhiều dự án khác thường và phù hợp theo cá nhân– một dạng bài tập kiểm tra ở nhà liên tục, nếu quý vị theo học.

Hỏi: Không, nhưng tôi muốn hiểu. Môn học về vấn đề gì?

Trả lời: Quý vị thích cái gì?

Hỏi: Không, ý tôi là có một sách danh mục các môn học không? Làm thế nào để tôi có thể biết ghi danh cho môn gì?

Trả lời: Không cần phải lo về điều đó. Danh mục các môn học khá lớn, nhưng nếu thường tới lui thì quý vị sẽ tìm thấy qúy vị chuyên môn vào trong điều mà quý vị thật sự lúc nào cũng muốn. Khá hài hước về việc đó diễn ra thế nào., Thông thường quý vị sẽ được làm điều mà quý vị muốn nhiều nhất và rồi quý vị sẽ khám phá ra rằng còn có nhiều điều hơn là quý vị tưởng.

Hỏi: Có rất nhiều bài tập về nhà phải không?

Trả lời: À, tùy thuộc vào quý vị. Quý vị có thể nói rằng không bao giờ có nhiều hơn khả năng làm của quý vị nhưng vừa đủ, luôn luôn vậy.

Hỏi: Còn về bằng cấp, rốt cuộc thì khi nào tốt nghiệp?

Trả lời: Ồ, không có danh hiệu nhất định. Quý vị có thể gọi nó là Bậc thầy của tất cả những bí mật của thời gian và không gian trong vũ trụ và xa hơn thế nữa.

Hỏi: Còn về học phí thì sao?

Trả lời: Nói theo một cách thì là hoàn toàn miễn phí, nhưng mặt khác có thể nói rằng trường sẽ nhận tất cả mọi thứ mà quý vị có, rồi quý vị sẽ có được nhiều hơn những gì mà quý vị nghĩ là mình có, và cuối cùng quý vị sẽ có ít hơn so với ban đầu, nhưng đó lại là tất cả những gì mà quý vị cần đến. Điều này thật là tuyệt vời.

Hỏi: Tên của trường là gì?

Trả lời: Tu viện Kim Sơn Thánh Tự.


 

Hằng Triều - Ngày 23 tháng 7, 1977

Hãy tìm hiểu thử ngay bây giờ, trước khi chết



Viên sĩ quan cảnh sát vùng Oxnard: “Hẳn là các ông gặp rất nhiều quấy rối ở Oxnard phải không? Nó thật sự là một thành phố khắc nghiệt, rất nhiều tên ma quái”.

Chúng tôi: “Tại sao chúng tôi gặp phải nhiều quấy rối?”

Cảnh sát: “À, cho dù quý vị có an hòa thế nào đi chăng nữa, thì ai đó vẫn sẽ gây rắc rối cho quý vị”.

Chúng tôi: “Chúng tôi đi qua những khu vực ‘gay cấn’ và ‘dễ chịu’, tất cả chúng đều khá giống nhau. Chúng tôi thấy rằng chúng tôi nhận lại những gì mà chúng tôi đã cho ra dù chúng tôi ở đâu”.

Cảnh sát: “Tôi đã theo dõi các ông từ khi các ông bắt đầu. Các ông là những 'người tụng kinh' à”?

Chúng tôi: “Chúng tôi từ chùa Kim Sơn Thánh Tự, và ở đó chúng tôi làm mọi việc – tụng kinh, ngồi thiền, trì chú, niệm danh hiệu Phật, đọc và giảng Kinh, tuân trì các giới luật – tất cả những việc đó với nhau”.

Cảnh sát: “Những giới luật gì?”

Chúng tôi: “Không giết hại, không trộm cắp, không nói lời vọng ngữ, không tà dâm, không dùng ma túy và các chất gây say”.

Cảnh sát: “Thế các Phật tử có quan tâm về vấn đề tái sanh không?”

Chúng tôi: “Tất cả chúng ta đều quan tâm về vấn đề tái sanh – tất cả mọi người”

Cảnh sát: “Đúng vậy. Các Phật tử thì biết, tuy nhiên những người khác thì lại không biết và họ vẫn đang chờ đợi để tìm ra điều đó”.

Dừng lại một lát. Dường như anh ta bớt chút băn khoăn và cởi mở thêm một ít.

Cảnh sát: “Đúng, tôi cũng tin vào việc tái sinh. Nhưng tôi có một câu hỏi: điều gì xảy ra giữa khoảng thời gian anh chết và thời gian anh được tái sinh? Ý tôi là, điều đó như thế nào? Mình sẽ đi về đâu? Trong bao lâu?”

Chúng tôi: “À, việc cần làm là nhìn vào trong nó, tự bản thân anh phải kiểm chứng”.

Cảnh sát: “Ý anh là (cười) phải chờ cho đến khi chết và tìm hiểu hả?”

Chúng tôi: “Không. Hãy tìm hiểu thử ngay bây giờ, trước khi chết”.

Cảnh sát: “Làm thế nào?” (không cười nữa).

Chúng tôi: “Bắt đầu với ngũ giới. Năm giới sẽ dẫn cho tâm trí ta ít phân tán và tập trung, từ đó trí huệ sẽ ‘mở ra’ và anh sẽ hiểu mọi thứ”.

Cảnh sát: “Giới luật là quan trọng, phải không?”

Chúng tôi: “Giống như là cố gắng xây một ngôi nhà bằng gạch mà không cần xi măng – hoặc hơn thế nữa, là không cần gạch”.

Cảnh sát: “Mục tiêu của các anh là gì?”

Chúng tôi: “Tất cả mọi người ở Tu viện Kim Sơn Thánh Tự làm việc để tự khai ngộ cho chính họ và cho những người khác cùng với chấm dứt mọi đau khổ.”

Cảnh sát: “Nhân tiện cho hỏi, Giác ngộ là gì?”

Chúng tôi: “Anh cần phải tự bản thân mình tìm hiểu xem. Người ta nói rằng điều đó vượt trên cả mọi ngôn từ. Tự bản thân anh cần phải tìm hiểu xem bằng cách thực hành”.

Cảnh sát: “ Chắc mình phải chờ xem phải không?”

Chúng tôi: “Không. Đừng chờ (đợi) – hãy bắt đầu ngay từ bây giờ. Hãy tìm hiểu đi”.

Cảnh sát: “Ừ. Có thể. Nghe này, nếu các anh cần điều gì hoặc cần tôi giúp, thì hãy cho tôi biết nhé. Hãy bảo trọng”.



Một người đàn ông có râu, mặc quần treo có vải che ngực, tên là Casey mang chiếc “bánh cuộn burrito trộn lẫn” gồm các loại ngũ cốc và đầy các loại đậu "vi sinh".

Tôi không cần nó nữa”, Casey nói. “Tôi đang trong chế độ ăn chay nghiêm ngặt trong một thời gian, nhưng tôi lại tăng quá nhiều cân – béo phì – nhìn này!” anh ta ra điệu bộ về khổ người to lớn của mình.

Anh ta đã đọc rất nhiều về lãnh vực tôn giáo và triết học Đông Phương, đã hết sức thích thú về công việc phiên dịch Kinh sang các ngôn ngữ phương Tây của Hội Phiên Dịch Kinh Điển Phật Giáo.

Một người đàn ông trông giống y Jason Roberts lái xe tới. “Các ông có nhận sự đóng góp bằng chi phiếu không? Tôi ngưỡng mộ những gì các ông đang làm. Đừng nản chí”.

 

Một người đàn ông và mấy trẻ con đi xe đạp. “Khi nào thì các Phật tử nói chuyện?”

Trả lời: “Các Phật tử nói chuyện khi đó là lúc để nói. Khi không phải là lúc để nói, họ yên lặng. Cách đó khiến họ không gây ra quá nhiều rắc rối với các miệng của mình”. Hôm nay rất nhiều gia đình cúng dường. Những con người thật sự chân thành và lương thiện.

Nó giống như họ rất hạnh phúc khi nhìn thấy điều gì đó mạnh mẽ, thực tế và trong sạch.

Đạo Phật ở Phương Tây!



Cậu bé Chris và chú chó Messiah. “Đó là một cái tên khác của chúa Jesus. Chúng tôi sống ở phía đằng kia bên cạnh chiếc xe cắm trại mới của chúng tôi cùng với gỗ ở bên ngoài, các ông biết không?”

“Thật sự hy vọng em sẽ không phải băng qua sa mạc Mojave!”.

“Nó giống như thế nào, sống ở trong tu viện và làm những việc này ấy?”

“Tuyệt vời, Chris”, chúng tôi trả lời, “Mỗi ngày giống như ngày đầu tiên của kỳ nghỉ hè khi trường cho nghỉ học”.

“Hay quá. Hẹn gặp các ông sau. Đi mau Messiah. Đi mau Messiah!”

Một gia đình: “Chúng tôi rất có ấn tượng. Làm như thế này cho tất cả chúng sanh. Đó là điều ấn tượng nhất – nó dành cho tất cả mọi người. Chúng tôi thật hạnh phúc và rất phấn chấn khi nhìn thấy điều này”. Sau đó, họ quay trở lại và làm ngập chúng tôi trong đồ cúng dường. Người mẹ muốn tìm một ngôi chùa để tới. Đưa cho bà địa chỉ của Tu viện Kim Luân ở Los Angeles.

 

Sai lầm: Những đồ cúng dường – do đề cập tới lương thực trong cuộc phỏng vấn báo chí, tôi đã gieo những hạt giống cho những sự cúng dường về lương thực. Thay vì không đề cập, thì tôi lại khoanh vùng một khu vực. Vì điều này nên tôi thật hổ thẹn. Thật là nhỏ bé và tham lam. Cho dù không phải là cố ý, nhưng hiệu ứng lợi ích it oi. Tôi sẽ không mắc lại sai lầm này nữa.

Nói chuyện – vẫn còn quá nhiều. Gắn chặt vào những câu trả lời ngắn gọn với tính cách quay ánh sáng trở vào. Không giải thích rộng ra và cung cấp nhiều hơn so với những gì yêu cầu. Nhiều quá một cái gì đó sẽ làm tê vị giác. Tốt hơn là ít đi. Để khiến tò mò và quan tâm.

Dù sao đi nữa thì mình biết cái gì chứ? Hãy chỉ tu hành!

 

Thời gian – vẫn trễ ba hay năm phút chỗ này, chỗ khác. Không bào chữa.

Đấu tranh ngay cả những điều nhỏ nhất, những thói quen xấu nhỏ gây ra đau khổ lớn.

Mắt, tai, mũi, thân và ý – chỉ sử dụng khi cần thiết, ngoài ra để chúng ở nhà, trên băng đá ấy.

Có rất nhiều sự thử nghiệm. Quý vị đã biết những câu trả lời: chỉ tu hành, tu hành, tu hành từng giây phút rồi sau đó chẳng có chuyện gì cả. Chúng được nhìn thấy đúng như chúng là gì. Vọng tưởng để lại những vết nứt.

 

Nhân viên trạm xăng: “Các ông làm việc này cho Đức Chúa Trời phải không?”

“Chúng tôi làm vì tất cả mọi thứ và mọi người. Hoặc là ông có thể nói chúng tôi làm việc này chẳng vì ai cả và chẳng có ai mà chúng tôi không vì họ mà làm”.

Anh ta đồng cảm về một cách: với chúa Giêsu. “Chúng ta không thể đúng hết cả được!”

“Tại sao lại không?”

“Khi chúa Giêsu ở trên thế gian…”

Đã đến lúc đi lạy. “Hãy bảo trọng. Chúng tôi quay trở lại với công việc”, chúng tôi nói.

“Tốt, tôi đoán như thế tốt hơn là không làm gì cả”. Anh ta kết luận.



Suy nghĩ phụ: Trong khi chờ đợi chúa Giêsu “trở lại lần nữa”, hẳn không phải là ý tưởng tệ khi làm sạch mọi thứ một chút, như thế ông ấy sẽ không phải giải quyết tất cả mọi việc lại lần nữa.

Đó là một kiểu giống như tham lam, chỉ ỷ lại và chờ đợi người tới cứu.

Cắm trại ở cuối một con phố cụt, trong một khu nhà.

Ánh đèn rọi loang loáng và tiếng loa của cảnh sát kiểm tra lại lần nữa.

Cắm trại ở gần một nhóm những người trẻ tuổi, những người đã xây bến du thuyền và sống trong những cái lều. Ban đêm, họ chơi nhạc rất hăng và trong khu đất trống họ đốt lửa trại với đống gỗ thừa còn lại từ dự án của họ. Chúng tôi cùng nhau chia sẻ trong một khoảng đất trống ở giữa những căn chung cư và những ngôi nhà ven biển hiện đại đắt tiền.

Sau những câu hỏi và trao đổi ý kiến, “Marina Rick” vị trưởng bộ lạc không chính thức nói, “Các anh hãy ở bao lâu tùy các anh thấy cần thiết. Chúng tôi có rất nhiều lương thực để chia sẻ. Ông chủ đến lúc 7:00 A.M. Ông ấy có thể không hiểu, nên…”

“Chúng tôi hiểu. Không vấn đề gì”.

“OK!”

 

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Hãy để cuộc đấu tranh bắt đầu



Tôi muốn thoát khỏi những phiền não nghiệp chướng ham muốn/ô nhiễm rất nhiều của mình. Việc QUAN TRỌNG là cắt bỏ những hạt giống này ngay bây giờ .

Những liên hệ như thế nào? Không khời ra bất kỳ tâm trí nào để cho con quỷ tạo tác với.

Giữ cho tâm trí lúc nào cũng bận rộn với ánh sáng và sức mạnh của Phật Pháp. Làm gì?

Tôi nhìn và thấy tất cả mọi công cụ đang có sẵn ở ngay đó để sử dụng – vì tôi đã học chúng trong suốt bốn năm qua. Các Pháp Đại Bi thì thật hùng dũng, thuần khiết, đầy năng lực và ánh sáng. Lúc này tôi cần đến chúng và chúng cũng có sẵn để dùng.

Khi quý vị tu hành, quý vị không thể để tâm trí nhàn rỗi dù chỉ là giây lát – quý vị leo lên cột càng cao thì càng trơn trợt và càng té ngã xa.

Cứ để mặc cho sự đấu tranh bắt đầu! Điều tôi chỉ quan tâm đến là thực hiện công việc này. Cứ để xem lúc này tôi bất cẩn như thế nào. Tôi muốn tự do khỏi bị ác quỷ và không có vọng tưởng khi làm việc. Không có nghỉ ngơi cho tới khi tôi có chút gì đó để dâng lên Sư Phụ để báo ân lòng Đại từ của Ngài.

Rồi sau đó, lại cũng không nghỉ ngơi.

 

Hằng Triều - Ngày 24 tháng 7, 1977

Trái đất được tạo ra để ăn thịt người



Thầy Hằng thật gần như đưa sát mặt vào ngay một mạng nhện có cả con nhện góa phụ đen
. Đây là thành phố của rắn độc và nhện độc.

Thêm một thứ khác cần coi chừng khi chúng tôi bò dọc trên mặt đất và bên lề đường.

Giống kiến mới: nhiều màu, mạnh mẽ và dữ dội. Chúng thật sự hung hăng và rất mạnh mẽ. Tôi tìm thấy một bầy kiến trèo lên trên một con bọ cánh cứng. Một con kiến cắn rất sâu và mạnh đến nỗi không thể tách rời nó ra khỏi con bọ cánh cứng nên tôi làm lễ quy y cho chúng cùng với nhau. Thật đúng là “trái đất được tạo ra để ăn thịt người” (Thủy Kính Hồi Thiên Lục)

Ở nơi hoang vu giữa những cây xương rồng và những cái chai bể xuất hiện một gia đình có mái tóc vàng, những khuôn mặt rám nắng vì bơi lội vùng California với những nụ cười và cúng dường, và hoa tươi.

“Ồ, các bạn là Phật tử. Chắc chắn rồi, các bạn có thể qua đêm ở đây”

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Tâm nhàn rỗi sân chơi của ma quỷ



Đ
ầu tiên trong nguyên thủy là: Phật tánh.

Ba tướng vi tế biểu lộ tiếp theo: nghiệp, nghiệp hiển lộ, nghiệp chuyển.

Chúng tạo ra tâm.

Tâm tạo ra mọi vọng tưởng.

Tâm còn mang một tên khác: con khỉ.

Nó biến hóa hàng ngàn lần.

Ba bước, một lạy: Bầu khí quyển

Quán sát chư Phật thi hiện

Ch khi tâm bặt hết vọng tưởng

Bên kia đường là một nhà máy điện đầy ác mộng;

Bên kia ngón chân là mt chú kiến ngũ sắc.

Chỉ cách đầu gối vài phân là mt làn gió mang hơi khí dầu cặn;

Chỉ cách một nắm bắt là tâm bình an.

Vui mng khấp khi khi nghĩ về đất Phật,

Da tht bxuyên thủng bi nhng nhành lá nhọn vùi trong cát,

Tiếng kèn xe và tiếng la hét của trẻ con mang hoa quả,

Đốt cháy cây hoặc đào rễ.

Mặt tri đơn độc hành hương cõi thiên đường;

Giao thông dày đặc như nhng suy nghĩ trên Xa Lộ Số Một.

 

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

 

Đây là cách khám phá và học hỏi. Trước hết, quý vị cần phải muốn một điều gì đó, và rồi quý vị phải cố gắng để đạt được nó. Nếu có những chướng ngại trên đường đạo, quý vị gắng loại bỏ chúng và nhắm đi đến mục tiêu của mình. Khi quý vị khám phá ra một phương pháp để giải quyết vấn đề của mình, sẽ có thể phải cần rất nhiều năng lượng tích cực để áp dụng phương pháp đó.

Ví dụ: Tôi đã mất một thời gian dài gần 3 tháng để quen được cuộc hành trình này; buông bỏ những vật chất cá nhân tỉ mỉ để thích ng theo mọi điều kiện và hoàn cảnh; và để bắt đầu tập trung vào chất lượng của công việc.

Cùng với sự gia tăng năng lượng do việc lễ lạy là sự gia tăng phiền não, đó là điều xảy ra khi quý vị tu tập và bắt đầu cày xới “mảnh đất tâmcủa mình. Nguồn năng lượng này đã lớn mạnh hơn thói quen đối phó của tôi – các phương pháp của tôi đã lỗi thời, không hiệu quảchẳng bao lâu tôi không có khả năng điều khiển được nhng năng lượng này. Những vọng tưởng, những suy nghĩ vẩn vơ dẫn đến những ham muốn làm tâm phóng dật ra bên ngoài, điều này đưa đến nhng lậu hoặc không kiểm soát được rồi từ đó làm cạn kiệt nguồn năng lượng mới tìm được.

Sự lãng phí vô ích nguồn năng lượng là một cái tát vào mặt đối với những người tu hành. Lúc bấy gì quý vị sẽ không còn một sự lựa chọn nào ngoài đứng dậy đi tiếp hoặc là bỏ cuộc. Đây không phải chuyện đùa. Tâm trạng này thật khủng khiếp và đau khổ. Được vài ngày tốt đẹp, tích tụ được một ít năng lượng, và rồi lại tiêu hao trongng phí vô ích.

Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để ngăn chặn những lậu hoc rò rỉ này. Rõ ràng là sự hiểu biết và thực hành của tôi có thiếu sót một điều gì đó. Tôi đã nhìn vào mọi nơi, ngay cả trước mặt mình. Tôi tr nên thành tâm, thật sđã rất thành thật tìm kiếm lỗ hổng rò rỉ trong tôi. Tôi khẩn cầu trong lời nguyện một cách rất vụng về với Tam Bảo xin được tẩy rửa sạch mọi nghiệp chướng.

Đây là một bước ngoặt. Điều đến với tâm tôi bấy gìờ là lập một lời nguyện cho bản thân, rằng tôi được tẩy sạch mọi phiền não của mình. Tôi đã sức cùng lực kiệt để giải quyết việc này. Tôi nhìn vào trong tận đáy của cuộc đời mình và nhận ra rằng điều tôi mong muốn hơn hết là học cách để trở thành Bồ Tát và tiếp nối công việc của Hòa Thượng và Tam Bảo. Khám phá này có vẻ như vững vàng, chắc chắn và trong sạch. Không nghi ngờ, không do dự. Vì thế, từ đó tôi nhận ra rằng tôi cần bắt đầu với công việc căn bản là dọn dẹp nhà cho dù phải nỗ lực thế nào, dù lâu dài như thế nào, dù phải lâu xa nhiều đại kiếp mà công việc này đòi hỏi, thân tứ đại giả tạm này sẽ được dùng để chấm dứt những con đường ma quỷ và thanh lọc tâm.

Và chuyện gì đã xảy ra? Lậu thoát nhiều hơn, chỉ có một chút xíu thay đổi. Vẫn chưa kiểm soát được tâm mình nhưng tôi có cảm nhận ra rằng – tôi đã trồng những hạt giống tham muốn từ những hành vi xấu xa trước đây của mình và rằng tôi có một số món nợ lớn phải trả. Quý vị không thể chỉ mong ước suông để được tiêu trừ hết nhng tội lỗi to ln như thế này được. Quý vị phải tháo gỡ chúng ví rất nhiều nỗ lực cố gắng.

Trong suốt những giờ lạy, mọi vọng tưởng của tôi diễn ra liên tục và việc tập trung tâm trí thật khó nắm giữ được, rất bc bôị. Vài chút xao lãng đã lọt qua sự canh chừng của tôi, bám chặt vào tâm tôi và những tập khí cứ đeo bám dai dẳng. Tôi nhận ra rằng có một sự khác biệt lớn giữa thời gian tôi dùng để lễ lạy và nhng gì mà tôi đã làm vào những lúc khác. Tôi cảm thấy giải đãi khi không ở trên đường để lạy và đây chính là nguồn gốc của nhng rắc rối trong tôi. Nhưng tôi vẫn không thể xác định được rõ ràng nhng rắc rối này đến t đâu. Tôi bèn phát một lời cầu nguyện khác xin trợ giúp. Tôi muốn được thanh tịnhtrong sạch từ thân, khẩu, ý, nhưng tôi còn cách xa điều này lắm, mặc dù tôi đã tụng đọc lời sám hối trong từng bước lạy. Trọng tâm của lời cầu nguyện mộc mạc của tôi là: Con nguyện quy y vi tất cả Chư Phật, Pháp và Tăng. Con không trong sạch, xin hãy chiếu sáng tâm con và chỉ cho con biết làm thế nào để sửa đổi.

Kết quả ra sao? Nhiều lậu thoát hơn. Gần như chết lặng vì sửng sốt và đau khổ, đã hết cách, tôi đã quyết định là sẽ quên đi mọi suy nghĩ và cảm giác của mình, quên đi tất cả mọi thứ đi qua tâm trí và nhng nguyên nhân gây hạnh phúc hay đau khổ, và chỉ đi ra ngoài lễ lạy. Chẳng có điều gì tôi biết là đúng, không có gì tôi làm là đáng tin cậy hay có hiệu quả; tất cả những gì tôi có là giới luật để trì giữ và những lời nguyện để hoàn thành. Tôi không hoài nghi về những lời cầu nguyện của mình hay sự không ứng nghiệm. Tôi biết rằng những chướng ngại của tôi rất sâu dày và sẽ không thể được chuyển hóa nhanh chóng. Tôi một lần nữa cảm nhận về một sự hiện diện, một sự xâm chiếm âm tối, tôi cảm thấy như bị mất chính mình nhưng lại không thể cưỡng lại.

Sau đó, tối hôm qua trong khi đang tụng kinh, chợt tôi bị tấn công bởi những suy nghĩ ô trược giống như trước, giống như một làn gió hôi hám bốc ra từ đầm lầy. Con quỷ đã quay trở lại lần nữa và nếu tôi không hành động, tôi sẽ mất tất cả những gì tôi có. Đột nhiên tôi biết được điều mà tôi đã làm sai trái. Một câu nói thường được lập đi lập lại là, “Tâm nhàn rỗi là sân chơi cho ma quỷ”. Sau một ngày lễ lạy, tôi đã để cho tâm trí mình tự do – không chú tâm chuyển hóa năng lượng mới mà tôi đã tích tụ trong ngày qua s tu tập. Trước kia khi tôi chưa thc hiện vic lễ lạy thì điều này có thể cho phép được – vì không có sự khác biệt lớn lắm. Nhưng lúc này mọi thứ đã khác. Để cho tâm trí xao lãng giống như lái xe thả phanh từ trên ngọn đồi San Francisco – chiếc xe cứ tự nhiên lăn xuống dưới chân đồi.

“Bồ Tát làm việc ngày đêm không ngơi nghỉ”. Tôi hiểu nguyên tắc này và nghĩ mình đã giữ chánh niệm với câu chú kiên nhẫn và lạy đức Phật Thích Ca Mâu Ni, việc mà tôi làm hàng đêm, nhưng những sự thực hành này, mặc dù chúng rất tốt, nhưng laị không đủ cho tôi đương đầu với năng lượng ma quỷ trong tôi. 

Và sau đó tôi sực nhớ đến: Thầy Hằng Triều tụng 108 biến chú Đại Bi mỗi ngày, giống như rất nhiều hành giả ở tu viện Kim Sơn, và chánh niệm của thầy ấy lúc nào cũng tốt đẹp. Tất nhiên rồi! Chú Đại Bi mà tôi đã sử dụng lúc có lúc không trong suốt bốn năm là Pháp Bảo của Hòa Thượng và đó chính là điều mà tôi cần ngay lúc này!

Sau khi hồi hướng công đức, tôi lấy chuỗi hạt ra và bắt đầu trì chú với lòng thiết tha chân thành, ngay lập tức tâm trí tôi trống rỗng không còn bóng tối âm khí và từ từ bắt đầu tràn ngập ánh sáng. Tôi cảm giác được gội ra, hồi sinh. Lúc nửa đêm, khi mà ma quỷ thường hay tấn công, tôi thức dậy và thấy mình vẫn đang trì chú trong giấc ngủ. Đây là câu trả lời cho lời cầu nguyện của tôi, và tôi cảm thấy hổ thẹn vì đã xin sự giúp đỡ trong khi Sư Phụ đã kiên nhẫn làm tất cả để trao cho chúng tôi các công cụ để tu hành, vậy mà tôi còn chẳng có một chút ý thức sử dụng chúng nữa.

Câu thần chú đã lấp đầy khoảng trống rỗng bên trong bộ não nhàn rỗi của tôi, tôi cảm thấy như thể mình được cứu thoát khỏi vực nước xoáy, được nhấc bổng ra khỏi căn nhà đang cháy, được nâng hng bi cái lưới an toàn lúc chỉ cách mặt đường đúng một vài phân. Tôi mở cuốn Chú Lăng Nghiêm chú giải và ở đó dưới phần dịch chú Đại Bi chính là những lời nguyện vụng về của tôi, chỉ có là chúng được viết đúng lại bằng những ngôn từ tao nhã vượt thi gian của Chánh Pháp: “Con quy y và kính cẩn nương theo Tam Bảo. Con cung kính cúi lạy và nguyện từ bỏ mọi điều tà ác… Với tâm đại bi, con sẽ khai ngộ chính mình và cho những người khác. Con sẽ tu hành những Pháp môn vô thượng này… ngưỡng mong chư Phật, Bồ Tát và các bậc thánh tăng sẽ lưu tâm đến con và bảo hộ con”.

Tất cả đều nằm ngay trong bài chú – những chủng tử âm thanh cứu rỗi mà tôi cần đến trong giờ phút tăm tối bấy gìờ. Thật sự là một viên ngọc vô giá.

Tôi sẽ trì giữ các Pháp Đại Bi cho tới tận khi hư không vỡ tan từng mảnh và đến khi nghiệp của chúng sanh cạn kiệt.

Xin tạ ơn Bồ Tát Quán Âm Đại Từ Đại Bi, người quán sát âm thanh của thế gian, quán tự tại, với ngàn tay ngàn mắt. Đệ tử này của Phật xin dành trọn cuộc đời quay về thờ phụng và cúi lạy trước thường trụ Tam Bảo khắp mười phương.

 

Hằng Triều - Ngày 25 tháng 7, 1977

Chư Phật đang đến, Phật - bơ

 

Thiền định thay đổichuyển đổi từ sự chú tâm vững chắc, tập trung sang bất chợt thấy mình biến mất, vào khỏang không. (Điều này xảy ra cả khi ngồi và khi lạy). Và rồi, có cái gì đến kiểm soát và tôi chợt nhận ra, “Ồ, tôi đây. Tỉnh dậy đi!” Tôi hoàn toàn không có ý thức gì về thời gian đã trôi qua bao lâu hay điều gì đã diễn ra quanh tôi.

Mọi việc trông sẽ như thế nào khi chúng được nhìn thấy mà không có tôi can d vào? Không bị gạn lọc và sắp xếp bởi mọi ham muốn, vọng tưởng và sợ hãi của tôi. “Một niệm không sanh khởi, toàn thể hiển bày” (1).

Trong khi tôi lạy, điều này đã xảy đến với tôi: Không thể tạo cảnh phim trên trạng thái này được, tính kịch của phim sẽ giết chết mọi thứ. S vật sẽ tr nên chết cng. Chúng đặt cái “ngã” to lớn lên tất cả những gì chúng nhìn thấy và làm đông cứng lại. Trong Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh Lược Giảng có nói, “… Nó biết tự tánh có thể sanh vạn pháp, vạn pháp quy về tự tánh” (2).

Nhìn vạn vật trên thế gian mà không có sự phân biệt thì mọi vật sẽ trông như thế nào? Tôi đã không thể nắm bắt được điều này nhưng đã nhìn thoáng được, nếm được một chút hương vị này trong buổi sáng nay trong khi lạy qua những đụn cát.

“Tôi nghĩ anh sẽ phải đã rất đói vào lúc này”, một người đàn ông nói khi cúng dường một số thực phẩm. “Tôi cũng nghĩ vậy”, tôi t nói thầm với sự hổ thẹn. Chúng tôi đã bị tràn ngập trong lương thực từ bài báo mới đây, trong đó tôi đã trả lời câu hỏi về làm thế nào chúng tôi duy trì bản thân bằng cách nói, “Mọi người đã rất tốt bụng và rộng lượng trong việc cúng dường lương thực, và rất có lòng đối vi việc hành hương”. Câu trả lòi này là một lời kết phù hợp với câu truyện “Lòng tham lớn về thúc ăn mang lại thu hoạch ‘nhỏ’”. Câu truyện về chú Sa Di sợ bị chết đói, vì thế chú ta đã vọng tưởng về thc ăn và quên mất Phật, đánh đổi điều lớn lao để lấy cái nhỏ nhặt.

 

Bài trắc nghiệm bơ đậu phộng.

Không được có thêm vọng tưởng về thức ăn na ! Đủ rồi ! Tôi cương quyết bít lỗ hổng này. Năng lượng hình thành, và năng lượng đó đi đâu? Đến với chư Phật, hay rò rỉ ra ngoài các lỗ hổng? Gần đây, lỗ hổng của tôi là cái bao tử và nếu tôi không dừng lại, tôi sẽ biến thành ma đói.

Vì thế tôi cố gắng. Nhưng, bơ đậu phộng lại làm tràn ngập tâm trí tôi. Rồi tiếp đến là tam muội bơ đậu phộng. “Bơ đậu phộng, bơ đậu phộng, tốt hơn hãy đến nhanh đi, nhanh đi”. Điều này cho thấy việc thanh lọc tâm có những lúc nhỏ nhặt như thế nào. Tôi đấu tranh và vật lộn để loại bỏ vọng tưởng này. Và ngay khi tôi bắt đầu làm chủ được tình thế thì một chiếc xe tiến đến. “Xin chào, tôi là Louise. Tôi cũng là người ăn chay. Các anh muốn tôi mang tới cái gì?” Quá nhiều rồi! Tôi sẽ không nói điều đó. Tôi sẽ không! Đây là một dạng thử nghiệm để xem tôi thật sự có thể từ bỏ bám chấp của mình vào thức ăn hay không. Tôi thậm chí sẽ không nghĩ đến nó.

“À, chúng tôi không bao giờ đòi hỏi gì cả. Bất cứ thứ gì mọi người muốn cúng dường. Việc đó tùy họ”. Có một giọng nói nhỏ, bị bóp nghẹn và bị bịt miệng, đang cố gắng hét lên: “Bơ đậu phộng. Bà Louise, hãy đưa cho tôi bơ đậu phộng!” Nhưng, tôi đã làm bóp ngạt đứa bé hỗn xược ấy. “Cứ nói đi” Bà Louise nài ép, “Tôi sẽ mang đến bất cứ điều gì các anh cần”.

Sư Phụ đã nói với tôi việc này sẽ xảy ra, và khi ấy tôi nên niệm “Chư Phật đang đến, chư Phật đang đến,” thay vì niệm “Thc ăn đang đến, thức ăn đang đến,”.

Thế là tôi đã làm như vậy. Lúc đầu việc ấy diễn ra với chút lộn xộn, “Chư Phật đang đến, Phật – bơ ...”, ấy chết, ý con là… Và tôi đã thoát. Bà Louise sau đó quay trở lại cùng với bánh mì và các loại hột đậu. Bà ấy nói sẽ quay trở lại. Tôi đã nghĩ “Có lẽ hễ tôi thường vọng tưởng về thc ăn thì bà ấy sẽ quay trở lại.” Đôi khi s thay đổi và tiến bộ được đo lường bằng vài phân (inches), đôi khi bằng những hột đậu phộng.

Ông Shao và Quả Kinh mang bữa trưa tới cúng dường và sau đó lạy theo chừng một tiếng rưỡi. Sau đó, một phụ nữ dừng lại và hỏi cô cùng chồng có thể lạy theo vào cuối tuần này hay không. Cô ấy đã nhìn thấy bốn chúng tôi và muốn làm theo. Nếu Phật giáo sẽ tồn tại sống động được ở phương Tây, thì đó chính là bằng cách này: là mọi người thực hành Phật Giáo.

Một chiếc xe tải dừng lại. Một người phụ nữ bước xuống, mở cửa xe và đám trẻ bắt đầu ùa ra giống như một trong những chiếc xe kéo ảo thuật gánh xiếc, và từ trong xe bốn mươi chú hề xuất hiện. Chúng cúng dường và nói với chúng tôi về người phụ nữ tám mươi tuổi này đã đi bộ khắp nước vì hòa bình (Người hành hương cho Hòa Bình”).

“Tôi lo lắng đến chết vì các anh”, một người phụ nữ hốt hoảng từ trong chiếc xe hơi vừa mới đến nói. “Chuyện gì đã xảy ra với anh? Trời ơi” Đôi tay của bà nắm chặt và xoắn lấy tay lái chiếc xe với tâm trạng lo lắng, răng cắn vào môi dưới và nhìn về con đường phía trước, “Các anh sẽ làm gì ở cái cầu to lớn phía đằng trước kia?” Chiếc cầu to lớn? Ở giữa sa mạc? Tôi nhìn về phía trước, nơi bà ta đang chỉ tay tới thì chỉ là một cái cầu vòng nhỏ (mười mét hoặc hơn vòng phía bên trên một khe nước sâu đã khô cạn). “Tôi thật không hiểu, mấy anh làm tôi lo lắng phát bịnh”.

“Chúng tôi rất an toàn và hạnh phúc, thưa bà. Không cần phải lo lắng đâu”.

“Ôi trời. Các anh không biết tất cả những thứ này khiến tôi lo lắng thế nào đâu!”. Bà ấy không mấy được an tâm và cũng chẳng bình tĩnh lại.

 

Ghi chú:

(1) Kinh Pháp Bảo Đàn Lược Giảng do Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng, Phẩm Sám Hối http://www.dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham6_SamHoi.htm :

Nếu chẳng nghĩ đến muôn pháp, nếu cái gì cũng không nghĩ, thì

"Nhất niệm bất sanh, toàn thể hiện." (一念不生全體現)

Một niệm không sanh, Phật tánh bổn lai liền hiển hiện. Nhưng quý vị có thể "không sanh" không? Quý vị có thể không có vọng tưởng không? Nếu quý vị có thể không có vọng tưởng, đó chính là Phật. Nhưng nếu chưa đạt đến cảnh giới này, thì cần phải tu hành. Nếu không tu hành thì người vẫn là người, chó vẫn là chó.

"Lục căn hốt động bị vân giá." (六根忽動被雲遮)

Lục căn, lục trần, lục thức vừa động thì bị mây che phủ.

 

(2) Kinh Pháp Bảo Đàn Lược Giảng do Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng, Phẩm Bát Nhã http://www.dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham2_BatNha.htm

Kinh văn:

Chư Thiện tri thức! Kẻ mê miệng nói, người trí lòng làm. Lại có người mê để lòng trống không, ngồi yên lặng chẳng nghĩ đến việc gì mà nói chính đây là "lớn." Với hạng người ấy, không thể nói gì được, vì họ bị sa vào lưới tà kiến.

Chư Thiện tri thức! Cái tâm lượng thiệt là rộng lớn, châu biến cả thảy Pháp giới, dùng nó liền hiểu rõ ràng. Cái tâm lượng khi ứng dụng ra, thì biết hết thảy cả sự vật. Cả thảy tức quy về một, một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thả, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhã vậy.

 

Giảng:

Người mê chỉ biết miệng nói mà không biết thực hành, người có trí huệ chân chánh thân hành thực tiễn mà không tu khẩu đầu thiền. Lại nữa, người mê để tâm không ngồi thiền, cái gì cũng không nghĩ đến mà nói đây chính là "lớn." Những người này đã lạc vào ngoan không, không nên cùng với họ giao lưu tiếp chuyện, vì họ là tà tri tà kiến, không phải là chánh tri chánh kiến, cho nên không cần để ý đến họ.

Ðại sư lại nói:

–Quý vị đều là người có trí huệ. Tâm lượng quảng đại rộng khắp pháp giới, mà pháp giới thì không có gì không bao hàm. Tâm dụng rõ ràng sáng suốt, như gương soi vạn vật, vật đến thì chiếu, vật đi thì không; ứng dụng của nó là biết tất cả, biết tất cả tức là một, một tức là tất cả. Nó biết tự tánh có thể sanh vạn pháp, vạn pháp quy về tự tánh, tự tánh đến đi tự do. Bổn thể của tâm thông suốt, không có ngưng trệ, không có cái gì không thông, chính là minh bạch tất cả, không phải ngu mê, đó chính là Bát nhã.

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Không ăn bữa trưa quá no

 

Áp lực lớn để tu hành tốt đẹp hơn

Tu Viện Kim Sơn Thánh Tự là một nơi tuyệt vời để tu Đạo. Tại sao?

Bởi vì Tu Viện Kim Sơn Thánh Tự lạnh lẽo, trắng xóa, trống trải và không thoải mái. Có gì tốt về điều đó? Khi quý vị tu hành, cần thiết phải chuyển tâm. Tâm trí trở nên chậm chạp và nhanh chóng bị kiểm soát bởi những thói quen và bám chấp. Khi quý vị bắt đầu tu hành và thanh lọc tâm trí, quý vị cần phải áp dụng rất nhiều áp lực đều đặn lên tâm trí và đừng để tâm trí thoát ra và chạy vào các pháp ở bên ngoài. Tại Tu Viện Kim Sơn Thánh Tự và tại đây, trên xa lộ 101 này, không có gì hấp thụ năng lượng của quý vị. Tất cả đều phản chiếu lại. Không có cái gì mềm mại. Khi quý vị gắng sức lấy chân tạo một lực đẩy vào tâm trí, khi ấy quý vị ở trên mặt đất cứng. Trong môi trường âm tính, thoải mái, có trải thảm, ăn uống no đủ, thì tu hành sẽ khó khăn hơn bởi vì cứ mỗi lần quý vị muốn khiến cho tâm trí tạo ra một cú đẩy ngược trở lại chính nó, thì quý vị lại bị lún xuống cái gì đó mềm mại. Năng lượng của quý vị bị thoát chảy đi bởi những thứ mềm mại và thoải mái. Thật khó để mà siết những con ốc vào cái tâm như khỉ của quý vị.

Nguyên tắc tương tự giải thích về “hội chứng sau khóa tu thiền”. Trong suốt các khóa thiền có rất nhiều năng lượng được hình thành bởi vì việc ngồi đã gây áp lực lên tâm trí. Mọi người thật sự đã rất thành công trong tu hành. Họ thắp sáng bên trong. Nhưng cũng có việc xảy ra rất thường sau khóa thiền là mọi người đột nhiên ngừng dụng nỗ lực lên tâm trí của họ và tất cả năng lượng bị phóng thích, giống như mở con đập ra sau khi nó vừa chứa đầy nước. Năng lượng vọt ra ngoài và mọi người làm những việc hồ đồ mà họ không thường làm. Năng lượng bị đánh mất.

Cái mẹo là luôn luôn phải có một cái gì đó cứng và dương tính để đẩy ra và đẩy liên tục. Bằng cách đó, cho dù quý vị không cảm thấy mình đang tiến bộ - điều mà quý vị rất có thể bị – thì ít nhất quý vị cũng sẽ không bị mất nền tảng.

Hư Vân lão Hòa Thượng đã nói rằng Thiền thực hành tham thoại đầu cần được làm giống như một con mèo rình lỗ chuột. Nếu quý vị thực hành bên trong với sự kiện nhẫn và tinh tấn thì quý vị sẽ nhanh chóng,tìm ra điều mà quý vị luôn luôn muốn biết.

 

Bây Giờ Thì Nó Đã Ở Sâu Thẳm Trong Tôi.

Có những sự thay đổi. Tôi cảm nhận một cách khác biệt về mọi vật nói chung, từ bên trong. Bây giờ tôi hiểu từ sâu thẳm trong tôi và tôi không muốn để nó đi nữa. Tôi muốn làm việc này đúng đắn. Tôi muốn thắng trong trận đấu vật này với cái tâm như con khỉ (của tôi). Tôi muốn trí huệ, lòng từ bi, giác ngộ cho tất cả mọi người.

Tôi muốn truyền bá Phật Pháp để giúp đỡ mọi người. Tôi muốn theo gót những bậc vĩ nhân. Tôi muốn báo ân lòng từ của cha mẹ và làm thầy tôi hài lòng.

Để làm bất cứ điều này, đòi hỏi trí huệ chân thực và sự thành tựu tâm linh. Công việc đó ở ngay phía trước tôi trên dải đường đá trộn nhựa đường và bụi bẩn này. Điều đó hẳn là đúng. Tôi có thể nếm được điều đó. Cái ‘vô ngã’ của tôi thật sự muốn giác ngộ và công việc tu hành – càng khó khăn càng tốt. Các lời nguyện của tôi cần phải được hoàn thành. Tôi phải thực hiện sự chỉ dẫn của thầy tôi.

Công việc đang giành lại. Tôi đang làm cuộc cách mạng hóa những thói quen của mình để phù hợp với những giờ lạy chính xác. Sự tập trung thật mong manh và dễ bị phân tán. Việc trở lại chậm chạp. Tất cả những hành vi không lợi ích cần phải triệt để và liên tục điều chỉnh. Điều này có nghĩa là những việc ăn quá nhiều, nói chuyện, mơ mộng, và nhìn ra bên ngoài – tất cả đều vô ích. Chúng phải ra đi.

Tôi sẽ lạy trên con đường này trong định trước khi quay qua hướng bắc tới Xa Lộ số 1. Cứ như vậy. Ta bà ha.

Băn khoăn không hiểu năng lượng đi đâu mất

Trong khi cười nói chẳng giữ gìn.

 

Cảnh giới đẹp.

Tôi đã lạy chừng hai trăm thước với Hòa Thượng đang ngồi kiết già trì chú trong trái tim tôi. Một số người với những thiện căn cực kỳ tốt lành và đã tu hành trong một thời gian lâu xa luôn luôn nhìn thấy Hòa Thượng hiện diện. Họ không bao giờ tách biệt với Ngài. Với những người khác như chúng tôi, vẫn còn có rất nhiều công việc và cần làm sạch trước khi chúng tôi có thể thấy được sự hiện diện của Sư Phụ.

Sau đó, sự phân tán xuất hiện và sự tập trung của tôi bị phá vỡ và tôi không còn thấy Sư Phụ trong một thời gian. “Sư Phụ đi rồi”, tôi nghĩ. “Không sao, khi một niệm không sinh, toàn thể hiện. C tiếp tục và không vọng tưởng. Hãy nhớ những gì Sư Phụ đã nói với ngươi trong cú điện thoại đầu tiên gọi từ thành phố Los Angeles rằng ‘Nếu con không khởi lên vọng tưởng, thì ta sẽ luôn ở bên con’ ”.

Ít phút sau, khi phương pháp ấy đã khiến tâm tôi lắng dịu trở lại, tôi nhìn thấy Sư Phụ như lúc nãy, ngồi như như bất động, và tôi nhận ra rằng Ngài đã không đi đâu cả, mà là tôi đã đi! Những tâm niệm đã mang tôi đi khỏi thế giới của tôi và đưa vào một thế giới với những nghiệp hồ đồ và các thói quen xấu. Khi chánh niệm trở lại, tôi trở về với thế giới của sự tĩnh lặng, bình yên.

Thời gian biến mất. Xe vận tải không nhấn còi. Dường như là tôi cũng biến mất. Thanh kiếm Bát Nhã đã chém xuyên qua những chướng ngại lớn lao.

Bí mật của quý vị là gì? Quý vị làm thế nào tìm ra được thế giới hôm nay? À, với tôi, một điều là không ăn bữa trưa quá no trong bốn ngày liên tiếp. Nghe có vẻ phàm tục không? Là ở ngay đó. Đó là sự thật. Trong đó Không có một lời nói.

 

 

Thầy Hằng Triều - Ngày 26 tháng 7 năm 1977

Mỗi ngày là sự khác biệt và không thể đoán trước

 

Đôi khi, chúng ta đi quá nhanh đến nỗi thậm chí không thể thấy chính bản thân mình. Sự liên hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị che mờ đi bởi tốc độ. Khi bị quả báo, đó là một sự sửng sốt lớn. “Tại sao lại là tôi?” “Tôi thật không may mắn”. “Số phận của tôi”. “Có người lại được mọi may mắn”.

Một trong những lợi thế của việc đi thật chậm mà thầy Hằng Thật và tôi có được là nhìn thấy kết quả của những hành động của chúng tôi khi nó còn mới mẻ. Có rất nhiều điều học được và rất nhiều lỗi lầm không lặp lại. Cuộc đời thật ngắn ngủi và vô cùng mong manh. Chúng tôi nhìn nó đến và đi nhanh như giao thông qua lại và đôi khi với giao thông – như trong trường hợp của “những vụ tai nạn”. Vòng luân hồi luôn luôn chuyển trên đường xa lộ và tốc độ gây chết người .

Đạo Đức Kinh (Lão Tử) dạy rằng:

Không ra khi ca, biết vic thiên h.

Không dòm ngoài ca, thy được Đạo Tri.

Càng ra xa,

Càng biết ít. (1)

 

Sự làm chậm lại và nhìn vào nơi mà chúng tôi đặt chân lên trở nên vô cùng quan trọng đối với sự sống sót và phát triển của chúng tôi. Không có gì là rủi ro cả.

Bố thí mà mong cầu hay tham muốn thì có những lỗ hổng. Không tham muốn, bố thí không lưu vết tích, không có lỗ hổng.

Nam, nữ, báo chí, trẻ em, động vật, ma quỷ…v..v… tất cả tới để bố thí hay đón nhận, giáo dục hay khuyên bảo. Điều đó vô tận. Khi tôi tràn đầy với cái “tôi”, thì tất cả chúng đều là gió. Chúng khuấy động ham muốn của tôi về danh vọng, thực phẩm, tình dục, giàu có hay dễ dãi và một khi mở ra, liền có lậu thoát.

Nếu tôi có thể từ bỏ khỏi cái “t ngã” lớn lao, thì tất cả những người này và tôi đều như nhau – những chúng sanh cần được giúp đỡ và hỗ trợ, những người có thể giúp và hỗ trợ người khác. Cho hay nhận, chúng ta đều đang chỉ ra Đạo và đang được chỉ cho biết về Đạo.

Một người thanh niên, vẻ cứng cỏi và lạnh lùng, kiểu nam tài tử James Dean, dừng lại và nói "Trò gì vậy?”

“Xin lỗi”, tôi nói.

“Cái gì, à, giống như những gì các anh làm?”

Khi tôi giải thích, anh ta dò xét khắp chúng tôi, từ trên xuống dưới, lướt t thầy Hằng Thật rồi tr lại tôi. Áo choảng, y giới, cái đầu – anh ta không bỏ sót dù là một chi tiết nhỏ nhất. Và, trong lúc đó chúng tôi tìm hiểu sự lạnh lùng. Điếu thuốc chưa đốt trong tay anh ta (cái “phong cách người đạo diễn”) thêm không khí mong đợi vào khung cảnh. Cuối cùng, anh ta nói, “Rất có lòng! Đó là tất cả những gì mà tôi có thể nói. Các anh rất có lòng”. Không áo, anh ta phơi bày một bộ sưu tập đắt tiền với những hình xăm tục tĩu ở khắp thân và cánh tay, và một cái mũi bị gẫy làm mặt anh ta bầu ra.

Tôi đưa cho anh ta một bản thông cáo . Anh ta nói, “Không, không”, lui đi và tay ra hiệu giống như trọng tài bóng chày gọi “an toàn” ở điểm hai (second base).

Không thể tìm hiểu được, nhưng các anh rất có tâm”.

Anh ta nghênh ngang và khệnh khạng bỏ đi, vẫn quay điếu thuốc lá chưa đốt với những ngón tay, trèo lên xe tải rồi lái đi mất.

Tôi có cảm giác một bàn tay đặt lên lưng tôi và nghe thấy một giọng than vãn, “Chúa ơi, hãy nhìn xuống xem người tội lỗi này…” Một phụ nữ to, béo một tay đặt lên người tôi, tay kia giơ lên trời, đôi mắt cuốn ngược vào và nửa khép lại, bà ta đang làm việc của bà, tay chạm vào tôi.

“Xin lỗi, thưa bà”.

“Hả, cái gì?”

“Bà cầu nguyện cách của bà và tôi sẽ cầu nguyện cách của tôi. Được chứ? Và bà vui lòng không chạm tay lên tôi khi tôi đang cầu nguyện”.

“Ồ, được rồi”. Bà ta nói và quay trở lại với dáng bộ rửa tội và trục tà âm thầm hơn. Đang trong lúc này một người đàn ông tên là Charles mang đến mấy chiếc bánh ngọt chiên, xúc xích hun khói, và xin tất cả chúng tôi cầu nguyện cho anh ta. Đôi khi, mọi thứ có thể trở nên thật lạ ở bên trong và bên ngoài đây.

Một người đàn ông làm việc ngay gần nhà máy điện Edison và vợ đi tới cúng dường trái cây, một số hạt và nước trái cây. “Tất cả những người đàn ông đang nói chuyện về các anh. Tôi sẽ lấy bản thông cáo này và dán lên ở nhà máy”.

Một chiếc xe dừng lại, một người đàn ông rảo bước nhanh tới và nói, “Tôi nghĩ việc các anh làm thật là cao cả. Tuyệt vời! Cần có nhiều người hơn như các anh. Cảm ơn các anh rất nhiều”.

Hồi hướng công đức vào lúc cuối ngày trên đại lộ Harbor. Một chiếc xe chở đầy những người thô bạo, đã ra ngoài uống rượu xong, họ dừng xe lại phía trước chúng tôi. Một thanh niên trẻ tuổi vạm vỡ đáng kinh ngạc, “Xin chào, tên tôi là Lonny. Bắt tay!” anh ta yêu cầu. Chúng tôi bắt tay và cố gắng chấm dứt. “Gì đây hả?” Anh ta dai dẳng.

“Thứ lỗi cho tôi nhé, Lonny, chúng tôi đang thực hiện một buổi lễ cầu nguyện đặc biệt, thế nên anh có thể chờ vài phút nhé”.

“Hả? Ồ, được, chắc chắn rồi”, anh ta lẩm bẩm và loạng choạng bước trở lại chiếc xe.

Ngay lúc đó, một chiếc xe khác tới dừng lại phía đằng sau. Cha mẹ của một nữ tu ở dòng tu tại thành phố Santa Barbara mang đồ tới cúng dường và những lời động viên. Thật sự thanh khiết và chân thành. Chúng tôi lại xin lỗi lần nữa và kết thúc.

Chúng tôi càng xa hơn Los Angeles, càng gần hơn tới cái mà không ai trong chúng tôi đã từng kinh nghiệm hay nhớ đến. Vùng quê dường như đang mở và trải rộng ra với tâm trí của chúng tôi. Mỗi một ngày thật khác biệt và không đoán trước được. Nhưmg, việc lạy và trì niệm thì không thay đổi. Chúng tôi đang nhận ra rằng, cái mà chúng tôi nhìn thấy và kinh nghiệm là một sản phẩm của tâm trí chúng tôi. Mỗi niệm cũng giống như mảnh đất mới, chưa thám hiểm, đầy nguy hiểm và bài học. Và, thỉnh thoảng chúng tôi có thể nhìn thấy “Chư Phật thường trụ khắp mười phương”. Tôi nghĩ, chúng tôi đều có chút ít thành thật hơn và bớt đi thêm chút kiêu ngạo, mỗi ngày một quyết tâm hơn và luôn luôn hạnh phúc khi đi trên đường Đạo.

Tất cả những quốc-độ

Ðều tùy nghiệp-lực sanh

Các ngài nên quan-sát

Tướng chuyển biến như vậy. (2)

 Kinh Hoa Nghiêm. Phẩm Thế Giới Thành Tựu

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ:

不出戶,知天下;
不窺牖,見天道.
其出彌遠,其知彌少.

Bất xuất hộ, tri thiên hạ﹔
Bất khuy dũ, kiến thiên đạo.
Kỳ xuất di viễn, kỳ tri di thiểu.

Đạo Đức Kinh - Chương 47.

(2) Kinh Hoa Nghiêm. Phẩm Thế Giới Thành Tựu http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem4PhamTheGioiThanhTuu.htm

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Việc ngủ gật lúc ngồi thiền sẽ từ từ biến mất đi

 

Tất cả là đau đầu gối.

Khi quý vị ngồi Thiền, cái đau đầu gối và lưng tạo ra sức ép để mở những ống dẫn sét rỉ của quý vị để cho dòng năng lượng lưu chuyển đúng cách. Đó là cái đau. Tại sao? Vì vấn đề là cần ngồi cho yên lặng trong khi thật sự rất đau. Bất cứ chuyển động nào cũng sẽ khiến đau thêm.

Không lâu sau đó, quý vị sẽ thấy rằng sự chuyển động khởi đầu từ trong tâm của mình. Để giảm đau, hãy giữ cho tâm trí tĩnh lặng. Thắng rồi! Một cú phá vỡ xuyên thủng qua và cơn đau biến mất.

Cái đau là nhiên liệu để tiến bộ tâm linh và khai ngộ. Nếu quý vị không thể chịu đau, thì rõ ràng là quý vị bị đau rất nhiều và việc không thể chịu đau này lại vô ích. Nếu quý vị luôn luôn chuyển động chân của mình khi bị đau trong khi ngồi thiền, thì nó cũng vô ích giống như trong cuộc phẫu thuật vết mổ được mở ra mà lại không cắt đi được phần bị bệnh.

Cứ lặp đi lặp lại mãi: Những vết thương ở bên trong và ngoài với cùng một căn bệnh ở bên trong. Hãy cắt sạch đi và chữa lành. Hãy ngồi yên!

 

Khi quý vị lạy trên xa lộ, quý vị cần phải tự tạo áp lực cho chính mình để giữ tâm trí yên lặng. Việc xe cộ qua lại là cái đòn bẩy tốt, mặt trời và gió cũng vậy. Nhưng có thể né tránh chúng mà không phải mất quá nhiều nỗ lực. Cần phải có áp lực thật sự. Áp lực này đến từ những lời nguyện, quyết tâm và từ sự tu hành đầy nghị lực.

Ông không thể không làm việc, Quả Chân! Hãy lạy đàng hoàng! Đừng ngủ gật nữa!

 

Một khám phá quan trọng nhất trong ngày của những khám phá vui vẻ: Các mảnh bài giảng phối hợp lại với nhau giúp giải quyết vấn đề kéo dải ba năm qua của tôi. Từ khi tôi xuất gia, mỗi khi ngồi thiền là tôi ngủ gật. Sau khi ngồi được chừng năm phút, một năng lượng u ám, mơ hồ, mờ mịt choán khắp đầu tôi. Đôi khi, sau một ngày căng thẳng, việc ngủ gật thật dữ dội đến nỗi tôi bị té ngã , rơi ra khỏi ghế thiền! Đó là một sự đáng tiếc, biến việc ngồi thiền thành một kinh nghiệm đau đớn, đầy ngờ vực, không giác ngộ một chút gì cả.

Trong chuyến hành hương, tôi gặp phải vấn đề tương tự. Tôi đã hỏi Sư Phụ và Ngài nói rằng việc đó sẽ từ từ biến mất đi. Nếu có thể ngủ, tỉnh dậy và tiếp tục ngồi, thì cứ làm như vậy.

 

 Đây là một số mảnh giáo pháp đã phối hợp lại với nhau trong ngày hôm nay:

1.      Tôi đang dụng công trong việc “xoay ánh sáng trở lại (hồi quang phản chiếu)”, theo đúng nghĩa là theo dõi tất cả những vọng tưởng về tới tận cùng gốc gác của chúng và kéo trở lại một phần “ánh sáng (quang)” hay năng lượng mà chúng đã mang đi.

2.      Tôi đang thực hành quán niệm về cái “số không (zero)” của tôi, trung tâm năng lượng của cơ thể tôi. Đây là nơi mà ánh sáng quay trở lại khi tôi mang ánh sáng trở lại. Trung tâm năng lượng của tôi đã phát triển ấm áp hơn mỗi ngày khi sự tập trung của tôi trở nên nhạy bén.

3.      Tôi trở nên khéo léo hơn với thanh kiếm bát nhã, chém đứt mọi ý tưởng bất chợt. Tâm trí trở về với cảnh giới tỉnh táo rỗng lặng. Cách thực hành này đem lại rất nhiều ánh sáng và được đưa xuống vùng trung tâm.

4.      Sư Phụ giải thích “ngọn lửa vô minh” cuối tuần vừa qua tại Chùa Kim Sơn Thánh Tự và điều này đối nghịch với trí huệ. Khi quý vị bắt đầu tu đạo, năng lượng mà quý vị sử dụng vào sự nóng giận hay ham muốn thì được dùng làm nhiên liệu cho trí huệ. Nó cần phải được chuyển hướng, kềm chế, làm tan chảy và rồi được dẫn về nơi vị trí vốn của nó. Quá trình này cần có thời gian.

5.      Đây là mấu chốt quan trọng. Tôi đã đảo ngược những ý tưởng của mình về danh và các bản tin tường thuật về chuyến đi và đã nhận được một lượng lớn năng lượng từ việc này. Nếu tôi có thể xoay năng lượng hướng ngoại của tôi trở vào trong, thì đó có thể là điều mà tôi cần cho sự giác ngộ. Sư Phụ đồng ý, và nói tôi hãy sử dụng nỗ lực của mình trong việc thực hành phương pháp này.

 

Chiều nay khi tôi lạy, tôi quan sát những dục niệm của mình để chặt đứt chúng đi, và nắm bắt lấy lại ánh sáng của chúng. Những dục niệm đã giảm đi rất nhiều trong suốt ba tháng qua, thật hạnh phúc, và tôi đã không có nhiều cơ hội để sử dụng sức mạnh của mình. Tôi thiền và ngủ gật trong lúc nghỉ ngơi, vẫn như mọi khi.

Sau một ngày làm việc, tôi ngồi chờ cho đến lúc ngồi thiền tiếp theo và đột nhiên hiểu ra. “Ngọn lửa vô minh” chỉ là dục niệm chưa được dẫn lưu đúng. Đó đều là những năng lượng bị lãng phí. Đó là điều đã làm hủy hoại việc thiền định của tôi suốt ba năm qua! Đó chính là ý mà Sư Phụ nói đến! Bây giờ thì tôi đã có cách để đối phó với nó rồi, để lấy lại năng lượng bị lãng phí. Ôi chao! Vọng tưởng phát khởi và “chém” một đường kiếm rồi “chuyển” qua hơi thở và chánh niệm “hồi quang”. Đoán xem điều gì đã không xảy ra? Tôi đã không ngủ gật! Lần nữa vọng tưởng lại tăng trưởng và lại sử dụng thanh kiếm. Mỗi lần tôi sử dụng Pháp môn tuyệt vời này thì thay vì buồn ngủ, tôi lại tỉnh táo hơn, tập trung hơn bởi vì năng lượng đi về lại chỗ của nó, quay trở lại trung tâm. Ôi, năng lượng! Không buồn ngủ! Thật là tốt đẹp! Nam mô A Di Đà Phật!

 

Dụng công mọi lúc.

Mục tiêu tiếp theo, có hiệu lực ngay lập tức: tôi muốn chú tâm và tinh tấn trong kiếm thuật Bát nhã suốt cả ngày lẫn đêm.

Khi tôi có thể chấm dứt những vọng tưởng trong khi đang ở giữa vọng tưởng và làm được như vậy suốt cả ngày – suốt cả tuần – và đối phó hữu hiệu với những thử nghiệm mà chắc chắn sẽ đến, thì tôi sẽ sẵn sàng bắt đầu thật sự thực hành Trung Đạo. Cứ tiếp tục lạy.

Ngày hôm nay tôi khám phá ra rằng “phản bổn hoàn nguyên” (quay trở lại gốc rễ và trở về cội nguồn) là một cảnh giới vượt ngoài ngôn từ. Tôi đã thầy một hình ảnh rõ ràng về hướng đi mới của tôi. Đó là sự quay trở lại của tâm trí và cơ thể về cái tuổi trước tuổi dậy thì, cái tuổi của sự ngây thơ trước khi tôi chìm đắm lặn sâu vào trong thế giới ô trược. Điều này thật sự đang diễn ra theo những cách rất quan trọng. Tôi đã đạt được mức độ rõ rảng mà tôi nhớ được từ nhiều năm trước.

Điều này giống như quay trở lại cuốn phim lịch sử bản thân, chỉ có lúc này với ý chí và mục tiêu. Còn nhiều nữa.

 

 

Hằng Triều - 27 tháng 7, 1977

Mạng sống của chúng ta thật mong manh

 

Ở giữa Oxnard và Ventura, trên đại lộ Harbor, vị mục sư của phái Universalist (Phổ Độ) lái xe đi ra ngoài cùng với một người bạn để kiểm tra và sửa hộp số xe của chúng tôi. Ngay khi ông ta đang bước tới, một vụ đụng xe khủng khiếp xảy ra cách chừng hai mươi thước. Vụ đụng xe ở ngay bên cạnh chúng tôi. Chúng tôi đã trông thấy tất cả và không thể làm được gì. Giống như là việc xảy ra ở trong phòng của quý vị – kiểu cảm giác về sự liên hệ. Chúng tôi nhìn thấy những phần của xe hơi, kiếng bể và kim loại, nhăn nhúm và tung tóe. Và chúng tôi bất lực ngồi nhìn các thân người bay xuyên qua tấm kiếng chắn gió và bay ra khỏi cửa xe. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là nhìn. Thầy Hằng Thật và tôi hướng dẫn giao thông, trong khi ông Louis gọi xe cứu thương và cảnh sát bằng chiếc máy điện đàm vô tuyến của mình. Hai nạn nhân đổ gục chồng lên nhau, nửa người vắt lên trên đống kim loại bị xoắn lại, đổ nát. Họ thật sự ở trong hình dạng rất tệ hại. Một người đã chuyển sang màu xanh trắng rồi. Việc xảy ra quá nhanh.

Mạng sống của chúng ta thật mong manh.

Thầy Hằng Thật suýt nữa thì bị một chiếc xe lái nhanh và ẩu đâm vào. Người lái xe lái thẳng vào chúng tôi với vẻ mặt không một chút thay đổi. Anh ta nhìn chòng chọc vào chúng tôi – gần như là anh ta muốn đụng chúng tôi. Ông Louis cố gắng ra hiệu anh ta chậm lại nhưng anh ta phóng thẳng qua. Ai biết được lúc nào thì chết đây?

Một người đàn ông má đỏ ửng, tóc xoăn dài thò đầu vào trong xe chúng tôi khi chúng tôi đang ăn. “Tôi đã nhìn thấy nhóm của các anh ở dưới thành phố Willits, và trời ơi, sau đó chúng tôi không chú ý đến và họ đã đi xa đến vịnh Coos Bay Oregon”. “Hả?” cả hai chúng tôi đều hỏi. “Rất lịch sự, những người ấy, cũng vậy”, anh ta nói thêm.

Cuối cùng chúng tôi hiểu ra rằng anh ta nói chuyện về chuyến lễ lạy hành hương của thầy Hằng Cụ và Hằng Do đã thực hiện vài năm trước. “Tôi cảm thấy tội nghiệp cho họ”.

“Tại sao mà anh cảm thấy tội nghiệp cho họ trong khi họ rất là an lạc?” chúng tôi hỏi ông.

“Này, hẳn nhiên là an lạc rồi! Nhân tiện, tên tôi là Vaughn. Các anh độ chừng,bao lâu sẽ tới được San Francisco vậy?”

“Tôi không biết. Có thể mất một năm rưỡi, Vaughn. Tại sao anh không cùng lạy? Đây là đường xa lộ lớn, rất rộng chỗ. Anh thấy thế nào?”

“Hê hê hê. Không phải cho tôi, cảm ơn. Tôi nặng hơn 325 pound (147 kg) . Tôi cần phải giảm xuống cỏn 265 (120kg)”.

“Khi chúng ta về tới Vạn Phật Thánh Thành, anh sẽ giảm hết tất cả tr5ong lượng dư thừa”.

“Hê, hê. Ngoài ra, tôi cần phải chặt củi đốt để mọi người không bị lạnh cóng trong mùa đông này. Tôi cá rằng lạy kiểu như thế này là một công việc thật cực nhọc khó khăn,. Nghe này, các anh hãy cẩn thận. Chúng tôi chặt củi ngay dưới con đường này. Chúng tôi sẽ trông chừng cho các anh. Bây giờ thì chúc các anh may mắn!”.

“Cảm ơn, Vaughn. Hẹn gặp lại anh sau”.

 

Hai người đàn ông trên chiếc xe máy dừng lại khi chúng tôi đang ngồi thiền cách đường xa lộ không xa lắm. “Đạo Phật dạy điều gì? Các anh làm gì vậy?” họ hỏi. Chúng tôi nói chuyện một chút và đưa cho họ một bản thông cáo. Sau khi họ đi, tôi đột nhiên nghĩ lại là nên nói rằng “ Đây. Hãy ngồi xuống chiếc thảm này với chúng tôi và xếp chéo chân, thanh lọc tâm trí” như là câu trả lời cho những câu hỏi của họ. Nó tự nhiên và trực tiếp hơn tất cả những lời nói cũ kia. Hãy cùng nhau làm việc!

Một ngày khác, ông Shao và Quả Jing lạy cùng chúng tôi chừng một tiếng rưỡi trên một địa hình khá gồ ghề. Đó là Đạo Phật!

Hãy chú tâm và làm đi! Dù thế nào thì những ngôn từ nói được gì về Đạo Phật? Đặc biệt là những lời nói của tôi.

Hai người bạn của gia đình của một người đàn ông trong vụ đụng xe dừng lại.

“Cảm ơn các anh đã giúp đỡ, hướng dẫn giao thông”.

“Họ thế nào?” tôi hỏi.

“Một người đã không qua được. Anh ta chết rồi. Còn người kia thì thật sự rất tệ - xương gãy rất nhiều, nhưng anh ta có thể qua khỏi”. Họ cúng dường.

“Cảm ơn các anh lần nữa” và họ rời đi.

Tôi nhìn lại phía sau nơi đụng xe. Tất cả những gì còn lại là rất nhiều miếng kiếng bể và những mảnh nhỏ của xe hơi, một cái mũ và một mắt kiếng bế nát. Giao thông lưu chuyển với tốc độ như bình thường, và chúng tôi thì lạy trở lại. Một số cuộc sống thì dường như không thay đổi, và một số dường như thay đổi.

Nhưng tất cả chúng ta đang liên tục thay đổi và đều chết như nhau, “sớm hơn mình tưởng”.

Không có nhà để về hay nơi nào đó để đi, kiểu của chúng tôi là nơi đâu cũng là nhà. Vì thế, khi ai đó chết ngay bên cạnh chúng tôi, việc đó giống như trong gia đình. Chúng tôi cảm nhận sự mất mát, và sự gần gũi về cái chết của chính chúng tôi.

 

 

Hằng Triều . Ngày 28 tháng 7, 1977

Đã giúp tôi vượt qua lúc khó khăn

Bên ngoài nhà máy xử lý nước Ventura – một số công nhân trẻ chừng mười tám tuổi dồn dập hỏi chúng tôi từ phía bên kia của hàng rào dây thép gai.
“Những thói quen xấu là gì”
“Trộm cắp, giết hại, nói dối, ma túy và rượu, tà dâm”.
“Ôi, những thứ đó”.
“Nhưng các anh chỉ có hai người thôi. Thế giới là cả một mớ hỗn độn. Các anh có thể làm được gì?”
“Cũng giống như đám cỏ dại này – bãi cỏ là một mớ hỗn tạp. Nếu các anh chỉ ngồi đó và nhìn vào chúng, thì bãi cỏ này vẫn cứ là một đám hỗn tạp. Nếu một người bắt đầu nhổ cỏ dại, sẽ mất một tuần lễ để làm sạch cỏ dại. Nếu mười người làm, thì có thể chỉ mất một ngày. Nhưng ai đó cần phải bắt đầu làm việc ấy”.
“Là tu sĩ, công việc của các thầy là gì?"
- Chúng tôi giải thích -
“Trời! Điều đó giống như chết vậy”
“Đúng”, một người khác nói. “Đặc biệt là không có bạn gái và không có tiền. Ý tôi là, đó là những lý do mà chúng ta ở cuộc đời này – phụ nữ và công việc. Cuộc sống là vậy, phải không?”
“Và khi các bạn trở nên quá già để quan tâm đến việc theo đuổi phụ nữ và dể làm việc kiếm thật nhiều tiền, rồi lúc đó tất cả những câu hỏi quan trọng là: tất cả những việc này là vì cái gì và tôi sẽ đi về đâu – rồi tất cả những câu hỏi này đổ xuống các bạn. Lúc ấy thì thế nào?”
- Yên lặng, không đùa cợt -
“Nhưng, các thầy cần tiền và những việc đó của nhà sư có vẻ thật nhàm chán”.
“À, có nhiều thứ không luôn luôn giống như mình thấy”
“Ý thầy là gì?”
“Tôi đã từng nghĩ cha mẹ tôi thì nhàm chán, một loại chán ngấy còn bạn bè thì thú vị – những người bạn mà tôi đã thường đi hoang với họ. Giờ thì tôi biết rằng chính cha mẹ tôi mới thú vị còn tất cả những người bạn tốt đi hoang một thời của tôi đang suy kiệt ở tuổi ba mươi, rỗng tuếch và chẳng đi đến đâu cả”.
- im lặng -
“Vậy chứ vụ Phật này thì có thú vị phải không?”
“Ư hừm, Khắp mọi nơi”.
“Các thầy có được trả tiền không?”
“Cái bên trong, đó mới là nơi thật sự đáng kể. Trong suốt một thời gian dài tôi tưởng có một việc làm tốt và có tiền là mục đích. Tôi đã làm rất nhiều công việc cho những người khác và cho dù họ có trả cao đến mấy, họ sẽ luôn luôn là người điều khiển và nếu mình không có cái tâm trong đó, mình sẽ chẳng đi đến đâu cả. Mình có thể chết về tâm lý ở tuổi ba mươi và đem chôn ở tuổi sáu mươi”. (1)
“Các anh biết đó, thế gian có lẽ sẽ không phải là nơi tồi tệ để sống như thế này nếu mọi người đều không phạm năm giới luật mà các thầy đang giữ”.
“À, chúng tôi phải đi lạy đây”.
“Một câu hỏi cuối cùng. Tại sao các thầy không ăn thịt?”
“Để trở nên từ bi và không giết hại những chúng sanh khác”.
“Nhưng, nếu chúng ta không giết loài vật, thiên nhiên sẽ trở nên lộn xộn hết cả - mất cân bằng”.
“À, chúng ta đang sát sanh (giết hại), và điều đó đem lại gì cho chúng ta? Hãy nhìn thế giới hiện nay”.
“Hừm”.
“Đúng, chúc may mắn, cảm ơn quý thầy đã nói chuyện với chúng tôi”.
“Này các thầy, thật sự có rất nhiều Phật như thế sao?”
“Bao nhiêu?”
“Thầy biết mà, mười ngàn”
Một giọng nói lớn tiếng làm gián đoạn cuộc đối thoại, “Này các anh, quay trở lại làm việc”, và tất cả chúng tôi đều cùng quay lại làm việc.

Morris Heck, một kỹ sư hải quân, làm việc tại căn cứ Pt. Mugu, hằng ngày anh ta đến với một chút đồ cúng dường, một nụ cười và những lời nói tốt đẹp. “Các thầy biết không”, anh ta nói, “Tôi không nghĩ tôi có thể giải thích được bởi vì tôi không thật sự hiểu gì về nó, nhưng mà – đây là một tuần thật sự khó khăn đối với tôi về mọi việc.Kinh hoàng lắm, thực như thế.
Và không hiểu sao, việc mang vài thứ ra ngoài này cho các thầy đã giúp tôi vượt qua được tuần này. Tôi cảm thấy tốt đẹp hơn và hạnh phúc hơn. Kiểu như là đã tạo cho tôi những ngày suôn sẻ và giúp tôi vượt qua lúc khó khăn”. Anh ta đứng đó, lặng lẽ, nhìn chăm chú nơi khác khoảng vài giây, rồi sau đó, như tỉnh lại, vui vẻ nói, “Hẹn gặp lại các thầy sau nhé”, mỉm cười và lái xe đi.

Khi chúng tôi mở cửa xe vào lúc cuối một ngày dài lễ lạy vất vả, chúng tôi thấy hàng ngàn dòng kiến ở khắp bên ngoài và bên trong mọi thứ.
Chúng tôi quay lại với những thói quen cũ của mình, và nhìn chúng như thể là mối phiền toái và “những côn trùng phá hoại”. Mặc dù đã cố gắng cẩn thận, nhưng vẫn rất nhiều con bị chết và bị thương trong sự điên cuồng đuổi chúng đi của chúng tôi. Chúng tôi thổi và quét nhẹ bằng khăn ăn, nhưng có quá nhiều và cuối cùng, chúng tôi có cảm giác rằng, “Này, chúng ta đang giết những chúng sanh nhỏ bé này. Điều này là sai trái”.
Chúng tôi đi ngủ trễ, cảm giác như thể vừa bị trượt bài khảo nghiệm về lòng từ bi – kiên nhẫn – chính là điều mà chúng tôi đang lễ lạy để đạt đến. Đây là vài ví dụ! Tôi tỉnh dậy suốt đêm bởi kiến bò khắp người– thỉnh thoảng lại cắn vào chú sa di rất mệt mỏi và hổ thẹn này.

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn: You can die at thirty and be buried at sixty.

- Có nghĩa rằng bạn có thể sống thêm 30 năm (sau khi kết hôn) nhưng sống như người chết còn sống. Đây là câu một tu sĩ Thiên Chúa Giáo đã dùng khi nói đến những gì xảy ra cho những thanh niên kết hôn lúc còn quá trẻ, trước khi họ khám phá ra tiềm năng của chính họ. (Meaning, you can live for 30 more years (after you get married) but it's as if you were a living dead person. This is a phrase a Catholic priest used when referring to what happens when young men get married too young, before they discover their own potential. )

- Còn có nghĩa rằng có người đã chết đối với những kỳ diệu và phong phú của cuộc đời ngay lúc còn trẻ bởi vì chấp nhận những thói thường theo lối mòn và rỗng tuếch, đó là họ chết về tinh thần. Sau đó họ sống những năm còn lại nhưng về tinh thần thì đã chết, mặc dầu về thể xác thì vẫn còn sống; nhưng không còn sự phát triển, chuyển hóa, thật sự như là đã chết. Hòa Thượng Tuyên Hóa gọi những người này là "những người sống đã chết" ("dead living people"). The meaning is that some people die to life in all its wonder and richness at a young age by settling into ruts and empty routines; that is they die in spirit. They then live out the remaining years spiritually dead, though physically still alive; but there is no growth, transformation, really, just like being dead. Shifu called them "dead living people."

 

 

Hằng Thật - Tháng 7, 1977

Đá là đá và nước là nước

 

Biết đủ.

Hôm nay, trong một phút chốc, tôi nhìn thấy những nơi mà tất cả chúng sanh kết nối với nhau và với Phật tánh. Tôi nhìn thấy lục căn, lục thức, ngũ uẩn, tất cả giống như là một hệ thống mạch riêng lẻ, nhỏ bé như một lỗ chân lông ở trên Pháp thân to lớn, tịch tĩnh của Đức Phật. Bị lầm lẫn bởi các giác quan là điều đáng thương. Đó là sự nhầm lẫn dây điện là ánh sáng, nhầm lẫn vòi nước ở bồn rửa là đại dương.

Tôi đã thấy rằng những giác quan như là những sợi tóc trong bóng đèn và Phật tánh giống như là nơi mà năng lượng trong những dây điện đến từ nơi nào ai biết được; nó luôn luôn đi vòng quanh, vòng quanh, chờ đợi để được khai thác và sử dụng để soi sáng cuộc đời. Những sợi tóc bóng đèn dễ gãy vỡ của chúng ta thì không đặc biệt, không quý giá. Chúng có thể làm cho có ánh sáng, nhưng rồi chúng cũng bị cháy rụi trong một thời gian ngắn. Chúng không phải là năng lượng Phật quang thường trụ và thanh tịnh.

Ánh sáng đó là tâm chân thật tụng chú và quán niệm Phật pháp, và nó sản sanh ra vạn vật. Cảm giác thật tốt đẹp khi ở nhà. Chẳng bao lâu, bóng đèn của tôi bắt đầu nói chuyện. Tôi đã lỡ hụt một nhát kiếm và mọi thứ đã đi rồi. Nắm bắt các tướng của nó đã đẩy những đám mây vào lối đi và vì vậy nó biến mất. Tuy nhiên, trong khi nó hiện hữu thì rất tuyệt vời. Đó gọi là “biết đủ”. Mọi thứ vốn đã viên mãn, tĩnh lặng và thường trụ bất động.

 

Buông bỏ các Pháp tướng

Tôi thấu hiểu được bài kệ của Pháp sư Thần Tú và tôi đang thực hành theo đó trong hiện tại:

Thân thị Bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Mạc sử nhạ trần ai. (1)

(Thân là cây Bồ Đề,
Tâm như đài gương sáng,
Giờ giờ cần phủi sạch,
Chớ để vướng bụi trần.)


Đó là những gì tôi có thể giải quyết hiện giờ. Tôi quan sát tâm trí và “tách rời khỏi mọi tâm niệm ngay giữa những tâm niệm”. Có những lúc, tôi đánh mất các ý niệm về tự ngã và hòa nhập vào mọi vật. Và ngay đó thì bế tắc ngay. Sự hiểu biết của Lục Tổ vượt trội Pháp sư Thần Tú. Ngài nói rằng:
 

Bồ Đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai? (2)

(Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào vướng bụi trần?)


Pháp sư Thần Tú vẫn chưa buông bỏ và chưa nhìn thấu suốt các Pháp. Tam Giới (3) vẫn là nhà giam. Đá là đá và nước là nước. Ngài vẫn còn phân biệt các pháp.

Bước tiếp theo là thông qua thực hành. Thực hành và hiểu biết rõ ràng không phải là hai. Tôi có niềm tin và minh chứng rằng vạn vật xuất phát từ tâm, bao gồm cả đường xa lộ, xe vận tải, không khí, đại dương và những con kiến. Nhưng tôi lại không có đủ thần lực cần thiết để cắt xuyên qua ảo ảnh và nhận ra thật tướng. Điều đó cần tu hành chăm chỉ và kiên nhẫn đầy đủ như lúc mới bắt đầu. Nam mô thường trụ thập phương Tam Bảo. Con quy y và quy mạng lễ bây giờ và mãi mãi. Nguyện cầu cho con được thanh tịnh trong việc phụng sự tất cả chúng sanh.

 

Nóng.

Ba bước một lạy có nóng không? Chúng tôi phải nhớ đặt những cây đèn cầy nằm xuống nếu không lúc quay lại sẽ thấy chúng tan chảy như bánh quy xoắn (pretzels) vậy.

 

Nguyện chấm dứt ham muốn tình dục.

Ham muốn tình dục là nguồn gốc của vô minh. Khi quý vị tìm kiếm quan hệ tình dục, ngay cả trong những hình thức vi tế, quý vị có một cái ngã, có sự bám chấp, và tất cả rắc rối của quý vị bắt đầu. Quý vị không thể phản ứng một cách vẹn toàn với cuộc sống. Có một điểm dính mắc, nó bám và móc chặt vào cái bản ngã, cảm giác về bản thân và gây ra nỗi đau. Đây chính là cái tách rời quý vị ra khỏi đức Phật. Dục niệm không thật. Nó là hạt cát giữa các bánh xe răng cưa, là hạt bụi trên gương, là những gợn sóng trên mặt hồ.

Nếu quý vị không có ham muốn tình dục, không có dù chỉ một dấu vết cực nhỏ về nó, thì quý vị có gì cần phải che giấu? Còn chỗ nào mà quý vị cảm thấy sợ hãi, hổ thẹn hay đau đớn? Quý vị sẽ chỉ là phản ứng thanh tịnh, ánh sáng thanh tịnh và hoan hỷ thanh tịnh.

Do có cái thấy về sự chân thật này trong buổi sáng nay, tôi mong muốn phát lời nguyện như sau, “Đối trước chư Phật và Bồ Tát trong mọi phương, mọi thời gian, đối trước Hòa Thượng trụ trì, đại chúng và chư vị Hộ pháp khắp nơi, con long trọng nguyện rằng con sẽ không bao giờ tìm kiếm tình dục, hay tán tỉnh hay sinh hoạt tình dục với bất kỳ một chúng sanh nào ở khắp Pháp giới, suốt khắp mọi thời gian không giới hạn. Con mong mỏi quay trở lại với bản nguyên thanh tịnh và phục vụ tất cả chúng sanh mà không có ham muốn tình dục ích kỷ. Con hoàn toàn từ bỏ mọi nhân duyên và những hành vi nhiễm ô giữa nam và nữ và sám hối tất cả tà hạnh trong quá khứ. Cầu mong rằng con sẽ không bao giờ liên hệ với nghiệp chướng của ái dục dưới bất cứ hình thức nào. Con nguyện phát lời nguyện này trong các kiếp tới và cầu nguyện Chư Phật, Bồ Tát sẽ từ bi nhiếp thọ con và chứng giám cho con lời nguyện này. Cầu mong rằng con sẽ đi cùng tất cả chúng sanh ra khỏi sự si mê và thể nhập vào sự Giác ngộ”.

 

Vị Thầy không có giới hạn.

Một trong những thứ hiểu ngầm mà tất cả chúng tôi ở chùa Kim Sơn Thánh Tự cùng chia sẻ đó là chúng tôi được học theo một vị thầy không có giới hạn. Cho dù quý vị có muốn đi xa đến đâu trong việc thực hành tâm linh của mình, Hòa Thượng đã đến đó và cũng có thể chỉ dẫn cho quý vị tới đó. Giới hạn duy nhất chính là tâm trí của quý vị. “Chư Phật chỉ chỉ ra con đường, còn chính chúng ta phải tự đi." (4).

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ:

身是菩提樹

心如明鏡台

時時勤拂拭

莫使惹塵埃

(2) Nguyên văn Hoa ngữ:

菩提本無樹

明鏡亦非台

本來無一物

何處惹塵埃

(3) Tam giới (The Triple World) - Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Xin xem thêm http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_gi%E1%BB%9Bi

(4) Nguyên văn Hoa ngữ: 佛指引我們這一條道路,但是要我們自己邁向這大道 - Phật chỉ dẫn ngã môn giá nhất điều đạo lộ,đãn thị yếu ngã môn tự kỷ mại hướng giá đại đạo.

 

Hằng Triều 29 tháng 7 năm 1977

m một người buông bỏ đưa ta tiếp xúc gần hơn



Chúng tôi quyết định
lạy tại chỗ và cố gắng dụ đám kiến ra bằng đồ ăn. Không đi. Chúng thích “Chùa Xe Hơi Vàng” và đến giữa buổi sáng chúng đã thiết lập các đường xa lộ, trường học và cộng đồng kiến nhỏ đang phát triển mạnh ở phía dưới mấy cái thảm xe, trong hộp đựng đồ ăn, trên trần xe và khắp người chúng tôi. Chúng tôi vẫn cảm thấy ghê tởm với hành động của mình và hoàn toàn không khôi hài tí nào. Thật là một cảnh tượng!

Chúng tôi đã thực hiện một buổi lễ siêu độ vong linh cho những con kiến mà chúng tôi đã giết và người đàn ông chết trong vụ đụng xe. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên buổi lễ đó được thực hiện trên đại lộ Harbor (Bến Cảng), giữa những xe tải, hành khách và những người xem hoài nghi. Cảm giác thấy đúng đắn.

 

Mẹ của một vị ni cô ở thành phố Santa Barbara dừng lại cúng dường trên đường bà ấy đi làm. “Mỗi lần nhìn thấy các thầy, tôi cảm thấy những gì các thầy đang làm thật là tuyệt vời. Giống như vẫn còn có hy vọng vậy”, bà ấy nói. “Đôi khi, tôi băn khoăn tự hỏi liệu nó có đáng vậy không”, bà ấy nói tiếp, “ý tôi là, thỉnh thoảng người ta khiến chúng ta tự hỏi, “’Tại sao cố gắng?’”

“Đó là tất cả những gì chúng tôi có”, chúng tôi đáp lại. “Đó là gia đình của chúng tôi”.

 

Một người đàn ông lái xe tới và cúng dường, “Xin hãy cầu nguyện cho ba tôi. Tôi yêu ba tôi lắm và tôi lo lắng về ông”. Anh ta thật chân thành. Anh ta chẳng biết gì về đạo Phật hay về chúng tôi nhưng anh ta vừa bộc bạch rồi lái xe đi.

Có quá nhiều người đang đi tìm kiếm cái gì đó để đặt niềm tin vào – điều gì đó để tin tưởng mà trái tim ý thức được. Có quá nhiều những thứ giả dối hoặc rao bán. Nhưng hầu hết mọi người không quên điều gì là sự thật và họ háo hức ôm chầm lấy nó giống như tìm lại được đứa trẻ bị thất lạc.

 

Louis dừng lại để nói rằng anh ta sẽ nhớ chúng tôi khi chúng tôi tiến về phương bắc. Anh ta nói rằng anh ta cảm thấy tốt đẹp hơn và nhiệt tình hơn với công việc làm mục sư của anh ta.

“Có rất nhiều thay đổi trong cuộc đời tôi trong thời gian ngắn ngủi này, nhưng chủ yếu tôi vui mừng là vì tôi thật sự cảm thấy có hy vọng cho nhân loại”. Louis đã tách ra mục vụ tôn giáo truyền thống để mở một nhà thờ nhỏ trong khu vực nghèo nàn hơn. Anh ta từ bỏ ngôi nhà thờ quy mô tráng lệ và sự nghiệp thoải mái của mình để làm việc tại nơi mà anh ta cảm thấy cần phải làm để sống trung thực. “Các anh biết không”, anh ta nói khi đang rời đi, “làm một người buông bỏ đưa ta tiếp xúc gần hơn

 

Hằng Thật. Tháng 7, 1977

Sẽ phải lạy rất nhiều thì mới thấy được cái thấy đó

 

Cái Thấy Thanh Khiết.

Tôi đã có một cái thấy về bản thân mình như là một chúng sanh thanh khiết vượt lên trên sự ham muốn tình dục. Không có thậm chí một ý niệm nhỏ nhặt về ham muốn nào nảy sinh ra trong đầu tôi. Đó là cảnh giới thanh tịnh.

Thân thể đã “trở lại cội rễ và quay về với cội nguồn (phản bổn hoàn nguyên)”. Thanh kiếm trí tuệ đã vạch ra một không gian trong sạch, tách biệt khỏi những suy nghĩ ô uế thường lệ. Việc dụng công lao nhọc đã làm được việc này. Lòng quyết tâm và những lời nguyện, và lao nhọc trong thời gian dài để chuyển hóa phiền não trở thành sự hoàn hảo (viên mãn) (1). Thói quen thật có sức mãnh liệt, tuy nhiên, ngay khi tôi ngồi xuống để kiểm tra và chiêm nghiệm cảnh giới này, tôi đánh rơi mất thanh kiếm và các lớp vô minh che phủ cũ quay trở lại.

Sẽ cần phải lạy rất nhiều để có cái thấy đó. Đó là công việc của tôi bên ngoài này, trên Xa lộ Hoa Nghiêm vi diệu đầy gió này.

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Anh ngữ: Determination and vows and long-term labor transformed affliction into perfection - Lòng quyết tâm và những lời nguyện, và lao nhọc trong thời gian dài để chuyển hóa phiền não trở thành sự hoàn hảo (viên mãn). Ở đây là chuyển hóa Phiền não thành Bồ Đề. Trong bài thơ Mộ Trung Tăng http://www.dharmasite.net/sf/life/life7-3.html Hòa Thượng có giải thích:

Ngay cả các bậc Bồ Tát cao nhất vẫn còn có một chút "vô minh sanh tướng” mà vẫn chưa bị phá vỡ hẳn. Chính vì vậy, tất cả các hạng chúng sanh từ Bồ Tát trở xuống chín pháp giới còn lại bao gồm cả loài người chúng ta đều có vô minh. Chính vì vậy, đức Phật nói rằng: Vô minh chính là phiền não; mà phiền nào chính là Bồ đề. Nhưng để chuyển phiền não thành Bồ đề thì chúng phải có công phu—khả năng tâm linh.

 

Hằng Triều - 30 tháng 7, 1977

Hãy nói như thể đang ở giây phút cuối cùng của cuộc đời



Những lời nói, đặc biệt là những lời không giác ngộ không bao giờ thay đổi được tôi. Không lời nói huyên thuyên hay giảng đạo của ai có thể làm tôi cảm động để thay đổi những thói quen của tôi, và thử làm điều gì đó khác lạ. Hành động luôn luôn là điều mà chúng tôi thấy và phản ứng theo. Những lời nói thì rẻ tiền. Ai cũng có thể dùng chúng. Những thành tựu chân thực thì hiếm hoi và ít người đắc được.


“Chư Thiện tri thức! Kẻ mê miệng nói, người trí lòng làm.”
(1)

Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn


Tôi cần phải học cách đóng cái miệng lại và mở cái tâm ra.

Nói khi cần thiết. Khi không hữu ích, đừng nói”

Hòa Thượng Tuyên Hóa

Vì thế, tôi cần làm việc chăm chỉ hơn, cần khiêm nhường, cung kính và kiên nhẫn.

Khi tôi nói, những lời nói cần phải xuất phát từ trái tim và chân thật, đó là những gì tôi biết được từ kinh nghiệm của mình. Không che đậy và giả tạo. Có quá ít thời gian cho điều đó. Đơn giản lời nói và thanh tịnh tâm ý.

Nói chuyện như thể đang nói với chư Phật, cô đơn giữa đồng cỏ tuyết mới rơi trong núi vắng lặng.

Hãy nói như thể đang ở giây phút cuối cùng của cuộc đời, và chẳng có gì quan trọng nữa cả.


“luôn gìn
giữ lời như thật….” (2)

Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Địa

 

Ghi chú:

(1) http://www.dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham2_BatNha.htm   

(2) http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem26-ThapDia.htm

Chư Phật tử ! Bồ Tát này lấy đại bi làm trước, chí nguyện rộng lớn không có gì trở hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu.

Những thiện căn đó như : lòng tin tăng thượng, nhiều lòng tin thanh tịnh, hiểu biết thanh tịnh, lòng quyết định, phát sanh lòng bi mẫn, thành tựu đức đại từ, không nhàm mỏi, lòng hổ thẹn trang nghiêm, thành tựu hạnh nhu hòa, kính thuận tôn trọng giáo pháp của Chư Phật, ngày đêm tu tập các căn lành không nhàm đủ, gần gũi thiện tri thức, luôn mến thích chánh pháp, cầu đa văn không nhàm đủ, chánh quan sát đúng với pháp đã được nghe, lòng không y tựa chấp trước, không tham muốn lợi danh cung kính, chẳng mong cầu tất cả vật dụng nuôi sống phát sanh tâm như thật không nhàm đủ, cầu bực Nhứt thiết trí, cầu Phật lực, vô úy, Phật pháp bất cộng, cầu các môn trợ đạo Ba la mật, lìa những dua dối, có thể thật hành đúng như lời nói, luôn gìn lời như thật, chẳng làm nhơ nhớp nhà Như Lai, chẳng bỏ giới Bồ Tát, sanh Nhứt thiết trí, lòng vững như Sơn Vương bất động, chẳng bỏ tất cả sự thế gian mà thành tựu tất cả đạo xuất thế, tu tập pháp trợ đạo Vô thượng Bồ đề không mỏi nhàm, thường cầu đạo Vô thượng.

Chư Phật tử ! Bồ Tát thành tựu pháp tu tập thanh tịnh tâm địa như vậy thời gọi là an trụ bực " Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa".

 

Hằng Thật. Ngày 31 tháng 7, 1977

Trong chiếc hồ đang dần cạn nước

 

Kiến: Lời dạy và sự trêu chọc đáng kể của Hòa Thượng về việc những con kiến từ đâu mà đến. Khi chúng tôi gặp Hòa Thượng ở chùa Kim Luân, Ngài đi tới, nhìn chúng tôi một lượt, rồi gõ mạnh trên đầu tôi một cái. “Từ con, chỗ này! Những con kiến đến từ những vọng tưởng của con”. Lúc nào cũng mỉm cười, và không ngừng cho tới khi tôi hiểu ra làm thế nào mà sự ham muốn và những bám chấp của tôi đã mời những con kiến vào trong xe. “Con có đủ kiến chưa?” Ngài tiếp tục hỏi. Thức ăn, bạn gái, và nói huyên thuyên – những vọng tưởng, tất cả đã khiến kiến đi vào. “Tất cả đều do tâm” (Nhất thiết duy tâm tạo). Sư Phụ kết luận: “Có kẻ hộ pháp ra ngoài nghịch ngợm trong khi nên hộ trì Phật pháp!” Bốp! một cái trên đầu. Thật là một vị thầy tuyệt vời! Và thật là một đệ tử ngu ngốc!

 

Khi tôi phạm sai lầm ở ngoài này, giống như với những con kiến, sau đó, tôi cảm thấy như tôi mất đi tất cả những người bạn. Nỗi cô đơn và nỗi buồn bị bỏ rơi phủ trùm lên tất cả. Cái cảm giác tự do vô biên và hạnh phúc tan biến thành một sự cô lập hạn hẹp khép kín. Ở bên trong một cục nghẽn dơ bẩn nhất thời gây tắc nghẽn dòng chảy. Tôi nghĩ đó là cái gọi là “mất đi những vị Hộ pháp”.

Các giới luật thật là quan trọng! Chúng là những bước đầu tiên để đến sự thanh tịnh.

Khi trì giới nghiêm cẩn, giới luật tạo ra một “không gian bên trong” sạch sẽ, nó giống như một căn phòng tràn ngập đầy ánh nắng của căn nhà trên cây trong buổi sớm mai.

“Trụ trong biển hư không." (Kinh Hoa Nghiêm). Là kiểu tự do và ánh sáng đó!

 

Cúng dường:

Hwang Kuo Pan $20 và thức ăn.

Hoo Kuo Shiang $20 và thức ăn.

Jo Jo (Kuo Jing) Leo – thức ăn.

Tỳ kheo ni Heng Ju và Hằng Fu – thức ăn.

Một sự cúng dường: “Không nhiều lắm, nhưng nó xuất phát từ trái tim tôi”.

Sư: “Sao lại không nhiều nếu như nó thật sự xuất phát từ trái tim?”

Một người đàn ông quan sát chúng tôi lặng lẽ tiến tới và đi qua trong một tiếng rưỡi, rồi chỉ nói “Cảm ơn”.

Một cặp vợ chồng trẻ, “Chúng tôi ra ngoài đây để nói với các anh rằng điều các anh đang làm thật sự làm trái tim chúng tôi rung động và đã thay đổi cuộc sống của chúng tôi… Đó là một sự truyền cảm hứng khi nhìn thấy ai đó đặt thật nhiều năng lượng vào việc tích cực”.

 

Già, trẻ, giàu và nghèo, mạnh khỏe hay ốm yếu, tất cả đều cúng dường.

Mỗi người một cách riêng nhìn thấy điều gì đó tốt đẹp và đáng để hỗ trợ cho những gì mà Ba bước, một lạy thể hiện. Tất cả họ đều biểu lộ theo cách khác biệt, nhưng khuôn mặt và trái tim họ thì giống như nhau. Đó mới là cúng dường!

Một người mẹ trẻ cùng với đứa con trên chiếc xe đạp: “Tôi thật sự ngưỡng mộ những gì các anh đang làm. Việc đó cần đến rất nhiều… à… những can đảm tâm linh”.

 

“…từ vô thỉ đến nay, phàm ra làm việc gì, cũng đều không được vừa lòng, nên biết đều do ác nghiệp dư báo đã gây từ quá khứ đến nay." (2)

Sám Dược Sư


 

Chúng tôi đang dọn dẹp bên ngoài xe vào lúc cuối ngày trên một con đường nhỏ ở Ventura. Tiếng bánh xe rít lên. Chúng tôi quay đầu nhìn thấy hai người trên chiếc xe gắn máy va đụng với chiếc xe hơi. Mấy thân người bay qua nóc xe hơi cắm đầu xuống đất ở phía bên kia đường. Chúng tôi một lần nữa lại nhìn mà không giúp gì được từ cách xa hai mươi hay ba mươi thước.

Thầy Hằng Thật chạy tới cùng với mấy cái mền và tôi đi gọi giúp đỡ. Máu túa ra từ tai, miệng và mũi của họ. Họ bị thương nặng.

Cô gái 19 tuổi đang hấp hối. Chúng tôi phủ mền cho họ, giúp cho người thanh niên dịu lại và bình tĩnh, và niệm Chú Đại Bi.

“Công việc”luôn tiếp diễn. Gia đình tôi hiện tại đang hấp hối, mọi lúc. Vụ tai nạn không phải là một thảm kịch đơn lẻ. Nó diễn ra từng phút. Từng giây phút con người chết đi và sanh ra. Nếu họ là gia đình của chúng ta và chúng ta có thể thấy điều này trong từng phút – sống và chết, chết và sống – thì chúng ta nên làm gì? Đúng,, họ là gia đình của chúng ta, tất cả những người này. Và chúng ta cùng đều là cá “trong cái hồ đang dần cạn nước”. (3)

Khi quý vị biết rằng sự chết và sống, đau khổ và hạnh phúc bị trói buộc trong những gì quý vị làm – khi quý vị nhận ra rằng căn nguyên và gốc rễ của mọi thảm họa và sự giác ngộ đang được gieo trồng ở chung quanh, ngay lúc này – thì quý vị sẽ dụng công chăm chỉ để thay đổi mình cho tốt đẹp hơn và tác động tới những người khác để họ cũng làm như vậy.

Đó là cách để giúp gia đình quý vị theo cách tôi thấy. Kiểu tu hành này là First Aid (Sơ cứu) và là thuốc đầu tiên cho mọi nhu cầu. Dụng công trên tâm trí. Làm việc trên mảnh đất nơi mà hành động bắt đầu, ngay cội nguồn – tâm địa.

Tai nạn, thảm họa, những cái chết bi thảm cũng như sức khỏe, tuổi thọ và hạnh phúc là những hệ quả, kết quả của tâm trí và những cội rễ được trồng từ lâu xa trước đây. Làm cho điều đó được rõ ràng trong cuộc sống của chúng ta, trong toàn bộ gia đình của chúng ta trong mọi loài chúng sanh - là giá trị và là sự thúc đẩy “công việc của các nhà sư”

Quỳ xuống bên cạnh cô gái đang hấp hối trên đường, tôi cảm nhận một sự gần gũi bất ngờ. Cô ấy rất dễ có thể là em gái tôi, hay ai đó đang tới để nói vài lời khích lệ với chúng tôi. Việc tất cả chúng ta đều liên hệ với nhau thì thật sâu sắc và thường bị lãng quên đi. Sanh và tử dường như phơi bầy và hiển lộ mối quan hệ của tất cả chúng sanh.

Để cố gắng làm một nhà sư tốt nhất mà tôi có thể làm được - để cố gắng tu hành càng chăm chỉ càng tốt, để được giác ngộ và “hộ trì chúng sanh khắp mọi nơi” – tất cả những điều này được sự khẩn thiết và thực tế của ngày hôm nay tăng lực. Cần phải cố gắng chăm chỉ hơn trong mọi lúc. Gia đình tôi đang trông ngóng và đau khổ cùng cái chết thì đang lăn về phía tôi.

”… phát sanh lòng bi mẫn, thành tựu đức đại từ." (4)

Kinh Hoa Nghiêm

 

Một trong những lý do để cúng dường Tam Bảo và hỗ trợ Vạn Phật Thánh Thành là để khi quý vị muốn đối mặt với những vấn đề thực tế của sanh tử, đặc biệt với cái chết của chính mình, thì có một nơi sẵn sàng để làm việc đó.

Hơn thế nữa, ở đó sẽ có những người thiện tri thức để cho quý vị học tập và những phương thức có thể làm được để sử dụng. Sớm hay muộn, mỗi chúng ta sẽ đến nơi đó, với những câu hỏi ấy. Khi không có ai để nương vào và không có nơi nào để đi, khi thời điểm đó đến, nó có thể khá đen tối và đáng sợ.

Những gì tôi đáng lẽ nên nói:

Q: Các anh đang làm gì?

A: Cố gắng chấm dứt sanh tử.

Q: Như thế nào? Bằng cách này à?

A: Khai mở trí huệ và thanh lọc tâm ý.

Q: Các anh tin điều gì? Đạo Phật dạy gì về những vấn đề này?

A: Trí huệ được tìm thấy qua sự dụng công của chính quý vị, trong tâm trí của chính quý vị.

Q: Có vẻ điên rồ, ngu ngốc.

A: Tôi biết. Nhưng mọi thứ không luôn luôn như những gì mà người ta thấy lúc đầu – giống như đan đớn và vui vẻ; sanh và tử. Thường thì niềm vui gây ra rất nhiều đau đớn, và rất nhiều lần, trải qua điều gì đau đớn sẽ mang lại rất nhiều hạnh phúc và nhẹ nhàng.

 

Một chuỗi các hoạt động ngày Chủ nhật: ngồi bên lề đường. Hằng Thật thì ngồi thiền và Hằng Triều thì tụng 48 Bồ Tát giới. Art và Carol Yee cùng gia đình họ mang bữa trưa tới cúng dường. Khi Art lạy, một chiếc xe gắn máy áp sát anh ấy, cố làm anhte1 ngã. Carol cẩn thận bày bữa ăn trưa, các tấm mền và các món ăn dưới một gốc cây.

Một nhân viên kiểm lâm đi qua và nói với cô ấy rằng cần phải chuyển tới một khu vực khác.

Trong suốt buổi đọc kinh Hoa Nghiêm sau bữa ăn trưa, một chiếc xe chở đầy thanh niên trẻ tuổi rú ầm ngang và chúng hét lên “Các người hãy đi ra khỏi đây”. Hai phụ nữ trong trang phục áo tắm bikini tiến tới, “Này những người dễ thương, các anh đang làm gì vậy?” Vào cuối buổi đọc Kinh Hoa Nghiêm, một cậu bé và em gái cúng dường một hộp bánh quy giòn, “Các chú nhận cái này chứ? Cháu nhìn thấy các chú trên TV lâu rồi mà đến hôm nay cháu gặp các chú ở đây, chỉ nhìn thấy các chú thôi cũng đã khiến cháu rất hạnh phúc”.

Đôi khi, cần phải tưởng tượng và tập trung tâm trí để hành động như thể quý vị vẫn đang ở trong tu viện. – các xu nhỏ tộng cộng 3.41 đô la ở trên đường xa lộ và mấy dãy phố. Hằng Thật đá đụng thêm một xu; 3.42 đô la.


 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ: 虛空海住 - Hư không hải trụ.

(2) http://www.dharmasite.net/samduocsu.htm Nguyên văn: Ðệ tử chúng con từ vô thỉ đến nay, phàm ra làm việc gì, cũng đều không được vừa lòng, nên biết đều do ác nghiệp dư báo đã gây từ quá khứ đến nay. Vậy nên chúng con cần cầu sám hối."

(3) Là câu trong bài Phổ Hiền Bồ Tát Cảnh Chúng Kệ trong Kinh Nhật Tụng tụng lúc Đại Hồi Hướng mỗi tối cuối ngày tại Vạn Phật Thánh Thành:

 

UNIVERSAL WORTHY BODHISATTVA’S VERSE OF EXHORTATION

Phổ Hiền Bồ Tát Cảnh Chúng Kệ

 

THIS DAY IS ALREADY DONE. OUR LIVES ARE THAT MUCH LESS.

Thị nhật dĩ quá, mệnh diệc tùy giảm.

是 日 已 過, 命 亦 隨 減 ,

shì rì yǐ guò mìng yì suí jiǎn

Một ngày đã qua mạng cũng giảm dần

 

WE’RE LIKE FISH IN A SHRINKING POND. WHAT JOY IS THERE IN THIS?

Như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc?

如 少 水 魚, 斯 有 何 樂 ?

rú shǎo shuǐ yú sī yǒu hé lè

Như cá cạn nước, nào có gì vui?

 

GREAT ASSEMBLY!

Đại chúng!

大 眾!

dà zhòng!

 

WE SHOULD BE DILIGENT AND VIGOROUS, AS IF OUR OWN HEADS WERE AT STAKE.

Đương cần tinh tấn, như cứu đầu nhiên.

當 勤 精 進 , 如 救 頭 然,

dāng qín jīng jín rú jiù tóu rán

Cần nên tinh tấn, như cứu đầu cháy.

 

ONLY BE MINDFUL OF IMPERMANENCE AND BE CAREFUL NOT TO BE LAX.

Đãn niệm vô thường, thận vật phóng dật.

但 念 無 常, 慎 勿 放 逸

dàn niàn wú cháng shèn wù fàng yì

Nên nhớ vô thường, thận trọng chớ buông lung.

(4) http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem26-ThapDia.htm

Chư Phật tử ! Bồ Tát này lấy đại bi làm trước, chí nguyện rộng lớn không có gì trở hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu.

Những thiện căn đó như : lòng tin tăng thượng, nhiều lòng tin thanh tịnh, hiểu biết thanh tịnh, lòng quyết định, phát sanh lòng bi mẫn, thành tựu đức đại từ, không nhàm mỏi, lòng hổ thẹn trang nghiêm, thành tựu hạnh nhu hòa, kính thuận tôn trọng giáo pháp của Chư Phật, ngày đêm tu tập các căn lành không nhàm đủ, gần gũi thiện tri thức, luôn mến thích chánh pháp, cầu đa văn không nhàm đủ, chánh quan sát đúng với pháp đã được nghe, lòng không y tựa chấp trước, không tham muốn lợi danh cung kính, chẳng mong cầu tất cả vật dụng nuôi sống phát sanh tâm như thật không nhàm đủ, cầu bực Nhứt thiết trí, cầu Phật lực, vô úy, Phật pháp bất cộng, cầu các môn trợ đạo Ba la mật, lìa những dua dối, có thể thật hành đúng như lời nói, luôn gìn lời như thật, chẳng làm nhơ nhớp nhà Như Lai, chẳng bỏ giới Bồ Tát, sanh Nhứt thiết trí, lòng vững như Sơn Vương bất động, chẳng bỏ tất cả sự thế gian mà thành tựu tất cả đạo xuất thế, tu tập pháp trợ đạo Vô thượng Bồ đề không mỏi nhàm, thường cầu đạo Vô thượng.

Chư Phật tử ! Bồ Tát thành tựu pháp tu tập thanh tịnh tâm địa như vậy thời gọi là an trụ bực " Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa".

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Thực hành ngay! Phật Pháp vi diệu!

 

Người đóng chai dưa chua vui vẻ.


Nếu quán niệm về chư Phật, Pháp và Tăng trong mọi lúc, ngày lẫn đêm, thì việc quý vị đang làm gì và đang ở đâu không thành vấn đề. Quý vị vẫn cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện, luôn ngập tràn trong ánh sáng và sự vi diệu. Một người giàu mà không có Phật Pháp thì nghèo hơn nhiều so với người đóng hộp dưa chua nhỏ nhất ở Brooklyn có Bồ Tát Quán Thế Âm là người bạn thân thiết nhất. Làm thế nào mà người đóng chai dưa chua làm được điều đó? Buổi sớm mai thức dậy, anh mang tới mỗi ngày nụ cười từ trái tim. Rửa tay và mặt, thắp một nén hướng và bắt đầu niệm danh hiệu Bồ Tát. Anh ấy niệm suốt buổi sáng, không bao giờ xa rời pháp thực hành của mình. Niệm suốt bữa trưa, trên đường xa lộ trở vế nhà mỗi đêm. Anh ta tiếp tục niệm danh hiệu Bồ Tát trong tâm trí mình. Anh ta mơ về người bạn tốt, ngủ mà không ưu phiền. Thức dậy trong buổi sáng tươi mới lại và biết ơn về một cơ hội khác để ngợi ca người dẫn đường từ bi của mình.

Anh ấy cảm thấy mình là người may mắn nhất trên thế giới. Anh ấy không thiếu bất cứ gì cả. Hạnh phúc. Không có một tình huống hay vấn đề gì mà anh ấy không thể tiếp cận và xử trí bằng trí huệ và sự kiểm soát. Khi có cơ hội, anh ấy giúp đỡ những người khác giải quyết vấn đề của họ, thường không để cho họ biết người giúp là ai và làm thế nào mà họ được giúp đỡ. Anh ấy thích cách làm ấy.

Đó là cách của vị thầy siêu việt của anh ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng thích như vậy.

Một số người có thể nghĩ rằng công việc của anh ấy không có tương lai, nhưng người đóng chai dưa chua lại chẳng quan tâm đến thành công thế gian. Anh ấy mãn nguyện và dành tâm trí với cuộc sống của mình. Bạn bè và hàng xóm nghĩ anh ấy thuộc kiểu người khá cổ xưa vì không cùng họ uống rượu, cờ bạc hay hút thuốc. Gì nữa, anh ấy còn không ăn thịt, không nói dối, không ăn cắp hay gian lận thuế. Khi những người đó gặp khó khăn trong cuộc sống, anh ấy là người luôn tới để cố vấn và an ủi. Anh ấy không nói nhiều, nhưng mỉm cười dễ dàng và giọng anh ấy có âm lượng nhẹ nhàng và mạnh mẽ khiến mọi người muốn nghe.

Ông chủ thích anh ấy vì anh ấy luôn đúng giờ, làm việc tốt với gương mặt vui vẻ và chú tâm vào công việc. Mỗi một chai dưa anh đóng hộp để đưa ra thị trường đều có Thánh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm trì niệm vào đó và nguyện rằng bất kỳ ai khi ăn những miếng dưa chua này (không có tỏi) sẽ được bình an và hạnh phúc.

Là cùng một thể với tất cả thì gọi là đại bi. (Đồng thể tức Đại Bi)

Đại bi có khi quý vị chấm dứt việc gạn lọc và chọn lựa giữa những chúng sanh mà quý vị độ. Những chúng sanh này là gì? Làm thế nào quý vị độ họ? Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn giải thích rằng những chúng sanh mà quý vị độ chỉ là những niệm suy nghĩ ở trong tâm trí của quý vị, những suy nghĩ nảy sinh từ tự tánh của quý vị. Khi Bồ Tát thật sự làm công việc của mình, Ngài độ tất cả mọi niệm suy nghĩ mà không phân biệt. Ngài không thể nghỉ ngơi bất cứ lúc nào. Ngài lập nguyện đưa tất cả chúng sanh (niệm suy nghĩ) về sự không lặng. Bồ Tát tách biệt khỏi niệm suy nghĩ và rời bỏ ô trược.

Hữu tình giác ngộ

Nhảy thoát bụi trần

Lục độ vạn hạnh

Thường luôn vun trồng. (1)

Hòa Thượng Tuyên Hóa
Mười Pháp giới (Phá giới Bồ Tát)

 

Đại Bi có thể biểu lộ khi người ta nhận ra rằng tự tánh vốn không có bất kỳ sự khác biệt nào. Đại Bi là một và cùng một thể, mình là một phần của thể ấy; nó nằm ở bên trong tự tánh mà người ta kết nối với tất cả các chúng sanh. Đó là nơi người ta làm công việc độ chúng sanh, đưa tất cả mọi niệm suy nghĩ trở về cội nguồn của chúng.

Một niệm không sinh

Toàn thể hiển bày. (2)

Bồ tát thực hành Đại Bi, và khi thực hành, sự thấu hiểu của chư Bồ Tát tăng trưởng. Không có sự thấu hiểu mà không có thực hành, và được hướng dẫn bởi những lời nguyện. Khi lập nguyện để độ tất cả chúng sanh, lời nguyện của Bồ Tát là sự bắt đầu của lòng từ bi. Khi đưa tất cả mọi niệm tưởng quay trở về với tự tánh, đó là chân thực thực hành. Tại sao?

Bởi vì chúng sanh là những niệm tưởng suy nghĩ và tất cả mọi niệm tưởng suy nghĩ là chúng sanh.

Sư Phụ viết bài kệ này:

Chân thật nhận lỗi mình,

Không bàn luận lỗi người;

Lỗi người là lỗi mình.

Đồng thể tức Đại Bi. (3)

Những lỗi lầm của chính bản thân mình đến từ việc liên tục thất bại trong việc cứu độ chúng sanh. Lười biếng và không làm việc cần mẫn là một sai lầm lớn; đó không phải là sự thực hành của một vị Bồ Tát.

Không bàn luận về lỗi của người khác. “Những người khác” đơn giản là những niệm tưởng suy nghĩ ở trong chính đầu của mình. Điều mà quý vị nhìn thấy như là lỗi lầm của ai đó, nó đến từ tâm phân biệt của quý vị.

Những lỗi lầm của những người khác chính là lỗi lầm của bản thân mình. Quý vị nên luôn luôn xoay ánh sáng trở về bên trong.

Chiếu rọi ánh sáng lên trên sự phóng chiếu của tâm ý và thực hiện công việc độ chúng tới bờ kia.

Đồng thể tức Đại Bi. Mọi niệm suy nghĩ đều đến từ tự tánh. Khi niệm suy nghĩ qua sự lọc lưa của tâm trí, liền phân biệt thành tốt xấu, đúng sai.

 

Khi Bồ Tát thực hành trí huệ Bát nhã và quét sạch mọi niệm suy nghĩ khi chúng vừa sanh khởi, ngài quay trở về với tự tánh, về bản nguyên thanh tịnh mà Ngài cùng chia sẻ với tất cả chúng sanh. Đây là thật sự cứu độ chúng sanh.

“Mọi lúc trưởng dưỡng chúng”. Ngài cần phải làm liên lục để cho Đại Bi hiển lộ.

“Mọi lúc” trong Đạo Phật mang nghĩa là trong từng suy nghĩ, từng phút, từng giờ, từng ngày, từng tuần, từng tháng, năm này qua năm khác, đời này sang đời khác, kiếp này sang kiếp khác. Thời gian mất đi chính cái nghĩa của nó. Đối với vị Bồ Tát có lời nguyện cứu hết thảy chúng sanh, một niệm suy nghĩ thanh tịnh, một hành động của lòng Đại Bi trải rộng khắp mọi thời gian và không gian cho đến tận cùng Pháp giới. Điều gì có thể giải thoát hơn, tự tại hơn tầm vóc của lòng Đại Bi?

Thực hành là thước đo của chư Bồ Tát. Để ở trên con đường Trung Đạo, Bồ Tát phải duy trì các phương tiện Pháp môn của mình cho dù hoàn cảnh gì sanh khởi. Nếu một cảnh giới tốt xuất hiện, Bồ tát không thể chuyển đổi thực hành của mình. Nếu một cảnh không vừa ý phát triển, Bồ tát vẫn trưởng dưỡng thực hành nguyên như vậy, nhẹ nhàng chăm sóc cải bản hữu giá trị nhất của mình, chiếc thuyền Pháp báu của mình để nó có thể chuyên chở tất cả chúng sanh từ đau khổ sang tới bờ kia của sự phúc lạc.

 

Thực hành cần không chờ đợi.

Nếu quý vị chờ cho tất cả mọi công việc Phật Pháp rõ ràng ở trong tâm trước khi quý vị bắt đầu thực hành thì quý vị sẽ chẳng bao giờ có cơ hội thực hành được.

Sự hiểu biết rõ ràng về giáo pháp của Đức Phật chính là từ dụng công bên trong tâm trí của quý vị, chứ không đến từ những lời nói mà quý vị nghe hay suy nghĩ về. Phật pháp là một phương tiện mà bất cứ ai cũng có thể sử dụng để dẹp bỏ những thứ ngăn cản mình không hiểu rõ. Nó là chất giúp hòa tan mọi thứ: nó cắt xuyên qua mọi bám chấp và suy nghĩ giống như kim cương cắt xuyên thủy tinh. Nhưng cần phải nỗ lực và chỉ nỗ lực mới mang lại sự hiểu biết.

Đừng chờ cho sự hiểu biết lóe sáng lên trong quý vị khi ngồi và trầm tư suy nghĩ về sự giác ngộ. Hãy đứng dậy và thắp hương, lạy xuống sàn, đứng dậy và đọc câu chú, nhiều chừng nào tùy theo mình thấy cần. Mở quyển Kinh, lục tìm một đạo lý, ví dụ như là:

“Nếu muốn biết rốt ráo

Chư Phật trong ba đời,

Hãy quán tánh Pháp giới:

Tất cả do tâm tạo.” (4)

 

Rồi hãy ngồi xuống trong thế liên hoa tọa và đặt đầu lưỡi lên trên vòm miệng, đôi mắt nhìn xuống chóp mũi. Tập trung tâm trí. Đó! Quý vị vừa mới thực hành một loạt các Pháp môn tốt. Quý vị đang trên đường tới hiểu biết rồi đó.

Lấn kế tiếp quý vị muốn thực hành, ví dụ như cùng thời gian như vậy vào ngày mai hoặc tối nay sau khi làm việc chẳng hạn, quý vị có thể đến chùa Kim Sơn Thánh Tự ở San Francisco hoặc đến chùa Kim Luân ở Los Angeles, hay đến Vạn Phật Thánh Thành gần thành phố Ukiah. Ở đó, quý vị sẽ tìm thấy một nhóm những người tốt, tất cả đang cùng nhau làm những việc như nhau dưới sự hướng dẫn của chuyên gia. Không bao lâu quý vị có thể nhận thấy rằng có một số những thay đổi tuyệt vời xảy ra trong cuộc dời mình, những sự cải tiến nhỏ trong tâm trí của quý vị. Trước khi quý vị biết điều đó, tất cả những công việc Phật Pháp đó sẽ tạo ra rất nhiều ỹ nghĩa bởi vì quý vị thật sự thực hành nó. Hãy thực hành ngay! Phật Pháp vi diệu!

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ:

有情覺悟,

跳出塵埃;
六度萬行,

時刻培栽。

 

Hữu tình giác ngộ,

Khiêu xuất trần ai;
Lục độ vạn hạnh,

Thờiì khắc bồi tài。

(2) Nguyên văn Hoa ngữ từ câu:

一念不生全體現,
六根忽動被雲遮 .

 

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,

Lục căn hốt động bị vân già.
 

(3) Nguyên văn Hoa ngữ:

真認自己錯,

莫論他人非.

他非即我非,

 同體名大悲 .

Chân nhận tự kỷ thác,
Mạc luận tha nhân phi.
Tha phi tức ngã phi,
Đồng thể danh đại bi.

(3) Nguyên văn Hoa ngữ:

若人欲了知,

三世一切佛,

應觀法界性,

一切惟心造.

Nhược nhân dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết phật,
Ưng quán pháp giới tính,
Nhất thiết duy tâm tạo.

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Để quan sát, lắng nghe và noi gương một vị Thầy

 

Các món nợ hằng ngày.

Thật là một món nợ về lòng tốt mà tôi đang chất chồng lên mỗi ngày khi tiếp tục công việc. Mọi người rất tử tế cùng với sự ủng hộ về vật chất, công sức và sự khuyến khích của họ. Tôi nhận ra rằng cách duy nhất mà tôi có thể trả ơn là cả ngày làm việc chăm chỉ với tu hành chánh niệm.

Tôi không thể để mất mục tiêu của việc ngộ Đạo. Quay trở về chùa Kim Sơn Thánh Tự mà không mang theo những kết quả gặt hái được từ việc tu hành là điều không thể tưởng tượng được. Tôi không thể đối mặt với bất cứ ai trong hoàn cảnh như thế. Đây là một động lực tốt để tu tập chăm chỉ hơn. Điều duy nhất để sợ hãi chính là sự lười biếng. Tôi không thể lãng phí bất kỳ thứ gì, nhất là thời gian quý giá. Đừng đánh rơi thanh kiếm ấy lần nữa!

 

Chuyển bữa ăn trưa thành ánh sáng.

Một khi quý vị học được cách chuyển mọi suy nghĩ trở lại thành năng lượng và ánh sáng thì những hoàn cảnh sinh ra phiền não hay vọng tưởng lại tạo ra năng lượng tốt nhất cho việc tu hành. Bữa ăn trưa chẳng hạn: Có rất nhiều tham muốn cuồn cuộn đến trong thời gian thọ trai và nếu quý vị sẵn sàng đối phó với những tham muốn này bằng thanh kiếm đã được rút ra, xoay chuyển ánh sáng trở lại (hồi quang phản chiếu), quý vị có thể nhận thấy một lượng lớn năng lượng mạnh mẽ và thanh sạch.

Có chánh niệm, quý vị cũng ăn ít đi. Rất tốt! Tất cả đang là khảo nghiệm chăng?

Tốt! Mọi thứ là cơ hội để có thêm ánh sáng, bớt đi vô minh, và tiến bộ hơn. Quý vị không thật sự mong có được trí huệ hay lòng từ bi trong khi quý vị vẫn bị mắc kẹt vào chính mình và những tham muốn của mình, đúng vậy không? Vậy thì sẽ là loại trí huệ và lòng từ bi gì đây? Quý vị có được Đạo ngay khi quý vị vừa buông bỏ những tham muốn của mình, nhìn thấu suốt những tham muốn của mình, kết nối những lời nguyện của mình vào thành thói quen tu hành của mình. Không thể có được Đạo trước lúc đó. Vì thế đừng lãng phí thời gian và năng lượng để lo lắng về sự giác ngộ hay những cảnh giới hay tiến bộ. Một chút thực hành là một chút tiến bộ thật sự. Hãy nhanh lên! Hãy làm tiến bộ thật sự! Hãy thực hành!

 

Nhìn bên ngoài; chuyển vào trong: Hương đêm.

Tôi đang ngồi thiền phía sau xe, đang cố gắng làm tan chảy đi cái nhiệt của một ngày lễ lạy bằng liên hoa tọa và chú Đại Bi. Thầy Hằng Triều đang lái xe trên đường xa lộ số 1, đang tìm chỗ đất nông trại để có chỗ vào đậu xe đêm nay. Không tìm được và chúng tôi quay trở lại về đúng địa điểm mà chúng tôi đã sử dụng lúc trước. Đó là một con đường nhỏ ở giữa hai đồng cỏ cho bò và rừng cây sồi đứng ngang qua một khe nước khô hạn chảy về phía Tây. Nơi đậu xe nằm ngoài tầm mắt của con đường, được tráng nhựa và bằng phẳng. Nơi đây tốt cho việc tập Thái cực quyền vào buổi sáng và buổi tối. Chúng tôi nghỉ lạy khi mặt trời lặn. Lúc này là một thế giới màu xanh – xám và những chiếc xe đã bật đèn pha. Trước khi màn đêm buông xuống, tôi đi để rửa sạch bụi dầu trên đầu và bàn tay. Khi tôi bước ra khỏi xe, phản ứng đầu tiên của tôi là rút vào lại bên trong xe. Đó là cái lạnh tháng Mười! Gió thổi xuống dưới thung lũng và chuyển không khí bên dưới và xuyên qua các lớp quần áo. Lạnh run!

Không có cái tôi, thì còn có ai để cảm nhận cái lạnh đây? Thật sự thì là ai? Mặt trăng lưỡi liềm chiếu vào khiến các chòm sao Nhân Mã, Lạp Hộ, Kim Ngưu tỏa sáng trước nhất. Cái chậu rửa và khăn mặt đặt ở trên hộp đồ ăn phía đằng trước; bình đựng nước ở trên nóc xe. Không thể đứng để đi tắm rửa. Tôi sẽ đóng băng mất! Tôi ngồi xổm xuống, chậu rửa trên mặt đất và dùng chiếc xe làm bức chắn gió. Dọc theo hàng rào dây thép gai và đồng cỏ phía sau, điệp khúc điên cuồng của những con chó sói Bắc Mỹ đang sủa ăng ẳng và oang oang cãi lại. Nghe có vẻ như chúng tìm được một chú nai đang trốn chạy. Tôi hy vọng con nai sẽ thoát. Nam Mô A Di Đà Phật!

Một tiếng súng trường vang vọng qua thung lũng từ trang trại phía nam. Giờ thì là một bầy sói từ bên phía trang trại lân cận phía bên kia mấy ngọn đồi nghe sự ồn ào kích động và phụ họa theo. Nhìn và nghe quá nhiều rồi, Quả Chân! Kéo ánh sáng đó trở lại. Chặt bỏ những tên trộm của giác quan bằng thanh kiếm của ông. Đã xong. Đứng lên lạnh run rẩy. Một cái bóng lớn và lặng lẽ của một con cú đang săn mồi lướt qua chỉ cách trên đầu chừng hơn nửa thước, màu đen nổi rõ lên trên nền trời đêm sâu thăm thẳm. Con chim cú bật đầu cánh và chao liệng xuống không khí, kẹp một nạn nhân nhỏ mang xuống chỗ đất đồng cỏ khô hạn nứt nẻ. Nam Mô Hắc Ra Ðát Na Ða Ra Dạ Da … liên tục, liên tục lặp lại trong đầu tôi. Những con nuôi để ăn thịt khom mình cúi xuống ở khắp bốn phía của chiếc xe và từ đỉnh ngọn núi cao phía tây, một con diều hâu đuôi đỏ chào đón các ngôi sao với một tiếng rít ma quái. Hy vọng ở đây không có côn trùng trên mặt đất bởi vì trời quá tối để thấy được chỗ mình đang đi. Vào lúc ăn trưa hôm nay, tôi đã đi hái mấy bông hoa dại để trên bàn thờ cúng Phật.

Khi tôi vừa bước đi khỏi một nhánh bông cao, cái gì đó ở trên quần chỗ chân khiến tôi chú ý. Ồ! Một con nhện dài chừng năm inch (khoảng 13 cm) – màu đen và vàng. Tôi đã bước qua thế giới của nó và hất nó ra khỏi nhà của nó; làm hoảng hồn nó nữa, tôi cá chắc vậy. Con nhện lắc người lật trở lại trên mặt đất, nơi mà tôi lật nhào nó ra khỏi chân tôi. Nam Mô A Di Đà Phật. Xin cứu mọi chúng sanh.

Tôi leo trở lại vào trong chiếc xe, người chủ trang trại lái chiếc xe bán tải màu xanh cũ kỹ đi ngang qua, vẫy tay thân thiện, mở cổng và đóng cổng lại. Tất cả đám bò kêu lên tiếng chào. Yên lặng trở lại khi tiếng lạch cạch của chiếc xe tải ra đi, chỉ còn chiếc đồng hồ báo thức đã được lên giây cót vẫn chạy tích tắc. Còn nửa giờ nữa đến giờ đọc Kinh và công phu chiều. Mặt tôi vẫn nhưng nhức vì nước lạnh và gió. Trong ánh sáng của những chiếc đèn pha của chủ trang trại, tôi nhìn thấy một đám mây khổng lồ hình con rồng đang bay nhanh ngang qua đồng cỏ phía bắc xuyên qua một khoảng trống giữa những ngọn núi chạy ra đại dương.

Đạo tràng bốn bánh này, chật chội, thiếu không khí như thế, có thể đơn giản là sự hóa thân của một con rồng. Nó chắc chắn bảo vệ pháp của chúng tôi hết lần này tới lần khác. Thầy Hằng Triều đang ngồi, cao thẳng như một vị Phật, đã đến giờ để hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, một Pháp môn tuyệt vời nhất.

Với ai đó lái xe đi ngang qua nơi đây, đây có thể trông giống như một cánh đồng trống rỗng giữa hai dãy núi. Còn đối với các vị sư trên chuyến hành hương này, nó lại là một khung cảnh có cái vị cay đắng và ngọt ngào của thế giới Ta Bà, nơi mà chúng ta đóng các vai diễn nghiệp của mình và tu hành chăm chỉ để chấm dứt đau khổ cho hết thảy chúng sanh.

Hôm nay tôi nhận ra cái bản ngã không bao giờ phá vỡ được cái tôi/tự ngã được. Cái bản ngã quá lớn. Lớn như núi Tu Di. Thứ duy nhất đủ lớn để phá vỡ được cái tôi/tự ngã là Phật Pháp. Pháp giới chứa trọn vô lượng núi Tu Di, không một vật có thể sót. Sử dụng phương pháp và và đập tan ngọn núi ra thành bụi. Rồi đập tan bụi thành hư không cho đến khi chỉ còn lại ánh sáng.

 

Có ba thứ mang tôi ngang qua vịnh: Tam Bảo.

Vấn đề sanh và tử là mối quan tâm lớn. Nó là câu hỏi quan trọng. Cái thu hút tôi tới tu viện Kim Sơn Thánh Tự chính là ba điều.

Thứ nhất, mọi người ở đó đều nhận ra cái gì là quan trọng, cái gì không quan trọng. Những người bạn tôi ở Berkeley sử dụng năng lượng và ánh sáng cũa họ để truy cầu những thứ không quan trọng và tôi không thể đi cùng với họ.

Những câu chuyện cười không còn buồn cười chút nào nữa, thức ăn thành vô vị, âm nhạc và phim ảnh, nói chuyện và chau chuối không ngừng cho cơ thể đều đã thành rỗng tuếch. Không có chút hương vị và không quan trọng nữa. Sanh và tử mới là quan trọng.

Thứ hai, cộng đồng ở chùa Kim Sơn Thánh Tự có một cách để giải quyết vấn đề sanh tử có nguồn gốc và truyền thống cùng hồ sơ thành công đã được ghi lại. Cách đó gọi là Phật pháp và cho dù các hoạt động ở chùa Kim Sơn Thánh Tự có biểu hiện bên ngoài khác thường như thế nào thì điều cốt tủy của việc đó là chân thật. Họ nghiên cứu và thực hành, bảo tồn và truyền bá Pháp vĩnh cửu này. Thật là một mùi vị kỳ lạ và sảng khoái. Tôi đã nguyện rằng không bao giờ sống ở trong hoặc gần một thành phố lớn. Trong ba năm của tôi ở đồi Berkerley, tôi đã đi vào thành phố San Francisco khoảng năm lần. Sau sáu tháng lái xe tới lui đến tu viện, tôi đã gom đồ vào va li, tìm nhà cho những chú mèo của tôi, cho đi hết những cái mũ và dời qua bên kia Vịnh để ở bên đó. Tất cả những thứ đó thứ thân yêu đối với tôi, nhưng so với việc tìm hiểu chuyện sanh tử thì chúng không quan trọng.

Thứ ba, ở cộng đồng Tu Viện Kim Sơn Thánh Tự, không có việc nghi ngờ và việc cạnh tranh. Không ai đi lệch lạc. Không ai lãng phí lăng lượng để chê cười ai đó hay là thách thức người thầy. Điều đó đã và vẫn hiển nhiên rõ ràng rằng Hòa Thượng trụ trì chùa Kim Sơn Thánh Tự là nguồn Chánh Pháp, những lời nói, mọi cử chỉ, giọng nói và đôi mắt của Ngài có thể làm tin cậy và noi theo. Quý vị tiến về phía trước theo sự chỉ dẫn của chính mình hoặc là quý vị tới một nơi hội tụ năng lượng và can đảm để tiến lên. Sự tôn kính Hòa Thượng trụ trì là tuyệt đối. Sự tôn kính Chánh Pháp là hoàn toàn và chân thành.

Những người lười biếng và tiêu cực không thể bám vào những sườn dốc đứng của Tu Viện Kim Sơn Thánh Tự. Họ tự rời ra khỏi cửa không có ngoại lệ. Thật là một sự đoàn kết nhóm cộng đồng nơi đây tao nên! Bằng nỗ lực, quý vị bước trên con đường rộng và bằng phẳng về nơi ánh sáng tụ hội. Những người đồng hành sẽ chỉ đường, giúp đỡ và thúc đẩy quý vị tiến bước, bởi vì tất cả họ đều hiểu rằng mối quan tâm trọng yếu nhất là việc giải quyết vấn đề sanh tử. Họ sẵn sàng làm những gì cần thiết để tháo gỡ nút thắt ca sự hiện hữu. Họ ăn, uống và ngủ Pháp, và họ tuân theo bằng một lòng kính ngưỡng và chân thành tột cùng đối tới vị thầy không thể nghĩ bàn, người tự gọi mình là “kẻ ngu ngốc nhất đang sống” và “thấp kém hơn cả một con ma”. Ngài nhận ra điểm trọng yếu cốt lõi của vấn đề sanh tử từ hồi còn nhỏ và đã đặt chân trên con đường Phật Pháp ngay lập tức. Thành tựu của Ngài trên con đường ấy vượt qua phạm trù tư duy và hoàn hảo. Nhưng Ngài có ở đó, trong Tu Viện Kim Sơn Thánh Tự, chờ đợi bất kỳ ai và tất cả mọi người muốn tìm thấy những lý do của họ khi dời qua bên kia Vịnh để dụng công nhằm tìm hiểu điều gì là thật sự quan trọng.

Có ba điều đã đưa tôi tới, đưa tôi vượt qua tới đây: Đức Phật, người đã chấm dứt vấn đề sanh tử của mình, Pháp mà Ngài thực hành cho tới khi Ngài thành tựu và lưu truyền lại nơi đây cho chúng ta vào thập niên 1970 tại nước Mỹ; và Tăng Đoàn, những người được sinh ra do sự chuyển hóa của Phật Pháp. Cuối cùng, còn một lý do khác nữa. Tôi đến chùa Kim Sơn Thánh Tự để xem, nghe và noi gương theo một vị Thầy của Phật Pháp, người giơ cao ngọn đuốc giữa cơn bão vần vũ, người che chở cho những đệ tử bằng chiếc dù kim cương trắng, người cho những vị trời, rồng, và người nơi nương tựa – một vị Thầy của Đạo.

 

Những thói quen tốt giúp tu hành. Chúng là dương và đầy ánh sáng. Chúng nuôi dưỡng trí huệ, lòng từ bi và sự tập trung của chúng ta. Những thói quen tốt giúp tĩnh tâm và lắng dịu cơ thể, giữ cho đôi mắt mở và sáng. Đó là những thứ tạo thành sự giác ngộ.

Vì thế, không ngủ ngày chút nào nữa.

 

Những câu hỏi về việc tôi là ai, điều gì xảy ra khi tôi chết, liệu có cuộc sống trước hoặc sau khi chết là những câu hỏi chính yếu căn bản đối với con người. Không có ai lại không băn khoăn về những điều đó. Một mặt, việc hỏi những câu hỏi này có thể là cách để được giải thoát và bình yên thoát khỏi những giá trị và rắc rối nhỏ nhặt và hư ảo. Mặt khác, nếu những câu trả lời mà quý vị có không đặt đúng ngay ở trong trái tim của quý vị thì chúng có thể là nguồn gốc của rất nhiều lo lắng, sự giận dữ và lầm lẫn.

Không dễ để tìm thấy những câu trả lời “đúng” và đi đến những quyết định vững vàng với những vấn đề này. Không dễ chút nào. Và sẽ khó khăn hơn cũng như cuối cùng là đau đớn hơn nếu không tìm.

Quý vị đang bước đi trên sợi dây căng từ lúc quý vị được sanh ra và có thể cả trước đó nữa. Thật quá sợ hãi để ở lại trên sợi dây căng và cũng đáng sợ tương tự để nhảy khỏi nó.

Việc tranh cãi với mọi người về những vấn đề này thật sự ngu ngốc và không có chút từ bi nào. Tức giận sẽ chẳng làm được gì cả. Tại sao lại phải tranh cãi? Chỉ trong một chớp mắt, mạng sống của chúng ta đã chấm dứt. Chúng ta có quá ít thời gian để tìm hiểu. Tại sao lại dùng thời gian đó để tranh cãi nhau bằng những lời nói và ý kiến? Hơn nữa, làm như vậy thì thành tựu được gì?

Cũng như người lính cứu hỏa sáng nay hừng hực lửa, anh ta muốn mang Kinh Thánh tranh luận với Phật Pháp và đã không gặp sự tranh luận nào. Về căn bản, thì những gì anh ta đang tìm và tôi đang kiếm là giống nhau, vì thế thật sự chẳng có sự khác biệt để mà tranh đấu lẫn nhau. Sự tranh chấp là một hành trình của bản ngã (cái tôi) và cuộc đối thoại kết thúc như thế này: “Tôi không nghĩ rằng có một cách cố định để được giác ngộ về mọi thứ. Có rất nhiều cách cũng như có rất nhiều người. Nếu như Kinh Thánh nghe thấy chân thật đối với anh, thì điều đó thật tuyệt vời. Còn việc này nghe chân thật đối với tôi. Chúng ta đều cố gắng hết sức để tìm ra con đường của mình, cứ bước từng bước chân thật và không làm tổn hại những chúng sanh khác trên cuộc hành trình ấy”.

Chúng tôi chia tay nhau với cái bắt tay và anh ta ngỏ ý chúng tôi hãy để lại tin nhắn tại văn phòng cứu hỏa của anh ta… để cho những người có thể ra ngoài và muốn tìm chúng tôi.

Nếu quý vị thật sự sáng suốt và rõ ràng, thì điều gì có thể khiến quý vị phiền muộn đây?

 

 

Hằng Thật - Tháng 7, 1977

Đạo Phật là lời dạy của chúng sanh

 

Nói chuyện với một người chú.

“Nói cho ta nghe, Christopher…”

“Tên tôi là Hằng Thật. Tôi là một tu sĩ Phật giáo thọ toàn giới”.

“Được rồi. Xin lỗi. Hằng Thật nói cho tôi biết. Tôi đã biết thầy và nhìn thầy lớn lên trong một thời gian dài. Thầy có rất nhiều tiềm năng để thành công trên thế giới này. Tại sao thầy lại lui về Đạo Phật?”

“Để tôi giải thích một vài điều với chú về cách tôi nhìn nhận chúng và tôi nghĩ rằng chú sẽ đồng ý rằng trước hết quyết định của tôi không phải là sự rút lui mà là một bước tiến lớn về phía trước; thứ hai, đó là điều khôn ngoan nhất mà tôi đã từng có thể làm được. Giờ, chú hãy nghe và xem chú có không nghĩ như vậy hay không.

Chú biết đó, tôi có một sự dưỡng dục vững vàng, tốt đẹp và khi tôi rời nhà để đi học, tôi có thể đã đi theo rất nhiều hướng khác nhau. Tôi có thể làm khá giỏi ở một số thứ. Tôi đã để ý tất cả mọi nơi tôi đến và đã hỏi rất nhiều câu hỏi. Ở trường Đại học, rất nhiều lần tôi đã hết sức tìm hiểu về con người trên thế gian này, những người đã 'thành công', và họ đã đi tới đó như thế nào. Cùng lúc đó, tôi cũng thấy rất nhiều sự đau khổ và đau thương ở khắp mọi nơi, rất nhiều điều tàn độc ngu xuẩn và gây hại không cần thiết – như chú biết – giống như những người khác, tôi đã khám phá ra thế giới. Tôi đã phát hiện ra rằng, cách thật sự để đo lường sự thành công là bởi những gì đang diễn ra ở trong trái tim. Có rất nhiều người có đủ tất cả mọi thứ, nhưng họ lại khổ sở. Có những người lại nghèo, nhưng họ thỏa mãn và sống cuộc sống trọn vẹn. ‘Thành công’ đã không còn quan trọng khi đến lúc phải đối mặt với chính cuộc đời của mình mà không có một sự trau chuốt nào. Nếu trong trái tim thiếu sót một điều gì đó, thì người ấy sẽ thường không vui, và không tiền bạc hay tình yêu nào có thể mang đến hạnh phúc. Nói tóm lại, điều mà tôi đang tìm kiếm thì không liên hệ đến tiền của hay quyền lực, vì thế, ‘thành công’ theo những nghĩa này không thật hấp dẫn đối với tôi. Tôi đang tìm kiếm sự tự do, tự do thật sự.

Tôi đã nhận ra rằng không ai muốn nói chuyện về cái chết. Cái chết khiến mọi người sợ hãi nhiều đến nỗi họ tìm đủ mọi cách quái lạ để làm ngơ, giả vờ rằng nó không tồn tại. Cùng lúc đó, họ lại bị mê hoặc bởi chính cái chết và đùa cợt với nó. Đây quả là vấn đề rất thực tế! Mọi người sử dụng hết năng lượng khổng lồ để cố gắng nhảy múa quanh cái chết nhưng không ai dường như biết chút gì về nó cả. Nhìn chung, mọi người chỉ sợ nó, nhìn trộm nó, và gọi nó là điều không thể tránh khỏi. ‘Cái chết và thuế má’, chú biết đó. Vậy thì điều gì đang diễn ra ở đây? Lợi ích gì khi chạy và đổ mồ hôi để xây dựng lên toàn bộ cấu trúc của cuộc đời nếu chú s mất nó đi trong vài mươi năm hoặc trong chốc lát? Không ai biết. Không ai dám hỏi. Các giáo sĩ, hoàng đế, bác sĩ, và những hành giả Du Già (yogis) – cho dù họ thuộc thành phần gì đi nữa, tất cả họ cũng phải chết khi thời điểm ấy đến. Không ai thoát khỏi cái chết, cái mắc xích đầu tiên và cuối cùng trong tất cả các kiếp sống của chúng ta. Điều này dường như là tuyệt vọng, nhưng cùng lúc đó, dường như có một thứ thật sự đáng để tìm hiểu."

“Phải rồi, Hằng Thật, tôi nhớ có nói chuyện với thầy về chuyện này và đã băn khoăn về sự sáng suốt này của thầy, đã nghĩ rằng, 'Tại sao nó lại rất khó chịu về cái chết?'. Điều này có vẻ vô dụng như việc la mắng nước vì bị ướt”.

“Vấn đề là sự sanh và tử là mối quan tâm trọng tâm của tất cả chúng sanh. Không ai tôi đã quen biết hoặc đã đọc đến đã có một tí hiểu biết gì đến nó. Và rồi, chú có biết không, khi tôi đang ngồi trong lớp học ở Michigan và đã nghe ông Henry Rosemont nói rằng, ‘… Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ Đề trong 49 ngày và đã giác ngộ về việc mình từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Điều đầu tiên Ngài nói rằng 'Lạ thay, lạ thay, lạ thay. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và tất cả đều có thể trở thành Phật. Chỉ vì vọng tưởng và s bám chấp mà họ không chứng nhận (được Phật tánh)’. Khi tôi nghe thấy như vậy, chân tóc tôi dựng đứng lên. Đây chính là câu trả lời! Ai đó đã đối mặt với nó và nhìn xuyên thấu cái chết và rồi đưa nó quay trở lại cuộc sống! Quá nhiều! Ôi, tôi đã vui mừng đến chừng nào. Rồi ông Rosemont nói đến bài thuyết pháp ở vườn nai tại Benares, khi ấy đức Phật nói rằng, ‘Tất cả cuộc sống là đau khổ, đó là do trải qua sự tích lũy ham muốn mà ra.' Có một con đường đưa đến sự diệt vong của sự ham muốn, đó gọi là Bát Chánh Đạo của Chư Phật. Khi tôi nghe thấy điều đó, tôi đã trở thành một Phật tử - ngồi trong một chiếc ghế bành nhựa tại trường đại học ở Rochester, Michigan. Từ lúc đó, tôi đã biết mình gặp được chân lý. Từ thời điểm đó đến nay, chỉ là một chuỗi dần bước dọc theo con đường ấy. Tất cả tiềm năng của tôi, như chú gọi như vậy, là một nền tảng tốt lành cho sự tìm kiếm để hiểu được điều mà Đức Phật thấu hiểu”.

“Thì ra là vậy. Vậy thì thầy tin vào Đạo Phật”.

“Phật là người thông minh và khôn ngoan nhất đã từng sống. Nhưng Ngài không phải là một nhà lý thuyết. Không có lý thuyết hay triết lý sống Phật Giáo. Tất cả là vấn đề thực hành. 'Ông hãy chỉ cho tôi thấy', một thanh niên ở Missouri nói, và tôi nói rằng, 'Hãy làm việc này và tự anh sẽ thấy'. Tại sao lại nương cậy vào tôi? Phật có được trí huệ là nhờ vào nỗ lực dụng công. Và đừng quên điều này – Ngài đã bắt đầu khi còn là một con người bình thường, chứ không phải là thần thánh hay bậc siêu nhân nào cả. Thực hành Phật Pháp là một tập hợp của các nguyên tắc mà chú áp dụng cho chính mình và có được kết quả cho riêng mình. Đó có phải là một khái niệm xa lạ không?”

“Gieo nhân nào thì sẽ hái quả nấy, phải không?”

“Chính xác! Nguyên tắc đó nói đúng sự thật. Tôi biết nó tận trong xương tủy của mình. Do đó, để tiếp tục câu chuyện, tôi nghiền ngẫm một chút và bắt đầu ngồi thiền, và rất thích. Tôi nhìn vào những người mà Đạo Phật cho rằng ‘thành công’ và đã phát hiện ra một loạt những vị thật tuyệt vời, những cá nhân xuất chúng có trí huệ sánh với Phật, đã đi suốt dòng lịch sử từ thời đức Phật cho đến ngày nay. Chú đã từng nghe những câu chuyện những vị thiền sư kỳ quặc họ chọn thời gian để chết, hoặc sống lại để mắng một vị đệ tử, hoặc chết nhưng thân thể không phân hủy. Có khi, cơ thể họ vẫn ngồi đó, thật thú vị. Đức Phật, một người bình thường, đã học cách chấm dứt việc sanh tử của mình và một nhóm những người nam và nữ ở mọi lứa tuổi và khắp nơi ở Châu Á cũng như vậy. Tôi có thể học gì từ những điều mà họ biết?”

“Phải, tôi nhận thấy sự hấp dẫn đối với thầy”.

“Rồi tôi bắt đầu gặp những người Phật tử và dù họ đến từ đâu, họ đều biểu lộ một phẩm chất của sự an lạc và hạnh phúc mà tôi thật sự ngưỡng mộ. Có điều gì đó về những nguyên tắc của nó khiến cho cuộc sống của những người này trở nên tốt đẹp. Một khi chú bắt đầu hành theo Đạo Phật thì chú sẽ thấy kết quả, và chú sẽ không phải nói chuyện về niềm tin trong quan điểm này hay vị thánh kia; đơn giản chỉ là thực hành và nhìn cuộc đời mình sáng rỡ dần lên. Không có ai ở bên trên chú để mà diễn dịch. Chú phải tự nhìn vào nó. Tất cả mọi thứ đều được thử nghiệm. Câu trả lời đến từ tâm trí của chú”.

“Phải rồi, tôi nhận thấy tất cả những điều này rất hấp dẫn và tôi khá choáng ngợp. Thầy có thể vắn tắt lại không?”

“Chắc chắn rồi. Đạo Phật là lời dạy của chúng sanh. Nó ứng dụng trên khắp tâm địa không cùng tận và tốt lành cho sức khỏe thể chất và tinh thần của chú. Nó vi tế, phù hợp và tốt lành cho tất cả sinh vật sống trong xã hội và tuyệt diệu không thể nghĩ bàn, vô cùng tận trong cõi giới tâm linh. Phật Pháp là một thứ ở trên thế giới mà --khi nó được sử dụng như được chỉ dẫn – thì nó sẽ là một sự bảo đảmvô điều kiện giúp cho chú được hoàn toàn tự do. Điều đó thế nào hả chú?”


 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Người bảo vệ đức tin

 

“Như Lai biết rõ tất cả mọi ham muốn sâu xa nhất của chúng sanh và khiến cho mỗi chúng sanh được hạnh phúc tùy theo những mong ước của họ”.

Kinh Hoa Nghiêm.

 

Qua nhiều năm, có những lúc tôi nhớ lại tiếng của mình nói chuyện với những người bạn về điều mà tôi thật sự mong muốn trong cuộc đời này. Nó đến với tôi vào những dịp đặc biệt qua con đường gián tiếp này. Tôi là người cần một tấm gương hay ý kiến phản hồi thường xuyên để kiểm tra sự tiến bộ và phát triển của mình. Cuộc hành hương này chính là tấm thảm thêu tất cả những điều mà tôi đã từng hết lòng mong muốn làm, tất cả đan xen với nhau bằng một sợi dây Pháp, cứng cáp và không thể bị phá vỡ.

Tôi nhớ đã nói với một người bạn tên là Donnie vào một đêm nhiều sao sáng trong tháng mười năm nọ rằng tôi cảm thấy tiếng gọi lòng mình để trở thành “người bảo vệ đức tin”. Vấn đề duy nhất là tôi vẫn chưa tìm thấy niềm tin nào đáng để bảo vệ.

Sau đó, lúc học trung học, một câu hỏi trong bài tiểu luận về tôn giáo đã cho thấy rằng tôi đang tìm kiếm một vị thầy cho đời mình, một người biết và thực hành những nguyên tắc sống thích hợp để ngăn chặn những sự vô nghĩa, làm chậm quá trình phân hủy khi người ta ở tuổi trung niên và trôi dần tới cái chết. Tôi muốn theo đuổi câu hỏi chính yếu của cuộc đời và cái chết, nhưng tôi biết tìm ở đâu một người thầy biết được điều đó?

Chùa Kim Sơn Thánh Tự ở San Francisco chính là nơi tôi tìm kiếm. Làm sao tôi có thể tìm thấy được một cách sống để cho tôi thời gian và sự hỗ trợ để nghiên cứu toàn thời gian về việc chúng ta từ đâu tới và chúng ta sẽ đi về đâu? Cuộc sống của một tỳ kheo Phật giáo cống hiến cho việc tìm kiếm đó. Thay vì đi làm việc lãnh lương, một công việc mà đối với tôi dường như nó luôn luôn giống như giết chết thời gian, tôi muốn một công việc toàn thời gian, không kỳ nghỉ phép, một nghề nghiệp có thể mang tôi đi xa đến hết mức khả năng của tôi. Tu hành là công việc đó. Nó chỉ bị giới hạn bởi những ảo tưởng viển vông của tôi mà thôi. Tự do là mục tiêu duy nhất đáng để tìm kiếm và Phật quả chính là cảnh giới cao nhất của sự tự do. Trí huệ là điều mà tôi mong muốn. Khi ai đó làm điều tốt, chân thành, kiên định và không lay chuyển trong việc tu hành, thì trí huệ và sự tập trung (định) cuối cùng sẽ xuất hiện. Tôi cảm thấy sự thôi thúc muốn giúp đỡ người khác chấm dứt mọi đau khổ khủng khiếp của họ. Khi tôi khám phá ra rằng đau khổ do tâm tạo nên, bao gồm cả thiên đường và địa ngục, thì tôi biết rằng làm một bác sĩ chữa bệnh thì chỉ giúp chữa lành những bộ máy tồi tệ của con người thôi và rồi lại đặt họ sang một cái vòng đau khổ khác. Khi người ta học hiểu được Phật Pháp đầy đủ thì họ có thể giúp đỡ con người chữa lành bệnh tận gốc. Tôi muốn sống một cuộc đời khám phá ở ngay chính giữa dòng của sự thay đổi và bất ngờ. Những vòng hành hương kỳ diệu của Tây Du Ký của Ngài Huyền Trang, Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn, và tất cả những tưởng tượng trên thế giới này. Tôi muốn sống và làm việc ở bên ngoài, ăn thức ăn ngoài trời, thường xuyên thực hành bài thể dục có hệ thống, học công việc của mình trong lúc làm việc, du hành, và quan trọng là làm tất cả những việc này cùng với một người bạn đồng hành mạnh mẽ, đáng tin cậy, một người có thể chia sẻ những sự hiểu biết giống nhau, và có cùng hoàn cảnh và mục tiêu.

Tôi muốn luôn luôn thuộc về một cộng đồng thuần khiết, với những người bạn đồng chí hướng tuân thủ kỷ luật chặt chẽ, hợp nhất trong mối quan hệ sâu sắc về niềm tin và công việc. Tôi luôn luôn không tin tưởng vào phương thức tiếp cận của thế giới lý luận về thực tế và tôi muốn tìm hiểu xem nó thật sự hoạt động như thế nào – quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả những mong ước này đã ở trong tâm trí tôi trước khi tôi bước vào cảnh cổng tu viện Kim Sơn. Giờ đây, sau năm năm, tôi đang ở giữa cả một đại dương của sự an lạc và nước ngát hương thơm. Dần dần, từng điều mong ước dù đã nói ra hay không nói ra của tôi đang trở thành sự thật. Một số thì biểu hiện ra, một số thì thấp thoáng đâu đó trong những việc đang tới. Phật pháp khiến tôi xao xuyến xúc động. Trong khi tôi làm việc và sộ́ng cuộc đời mình như một kẻ mù đang bước về phía ánh sáng xa xa, tôi vui mừng đang được tiến bước.

Hãy nhìn vào những sự kỳ diệu của việc này: không điện thoại, không ông chủ, không hóa đơn, không trẻ em, không xe để lái, không tiền để tiêu, không hàng xóm, không quảng cáo, không tranh luận, không công việc nhàm chán, không máy móc, không nhiệm vụ, không lo lắng, không tiệc tùng, không chất độc.

 

Hằng Thật - Tháng Bảy, 1977

Có tâm niệm nào trong mười lạy đó không?

 

Các cột điện, các trụ hàng rào, và những bụi cây: Mượn Cái Giả Để Tu Cái Thật.

Nó dường như đang hoạt động thế này: Còn có những điều khác nữa chứ không phải chỉ có những tư tưởng ở trong tâm trí của quý vị. Có một hạt giống (chủng tử) của ánh sáng trí huệ, Phật tánh. Chúng ta không tìm ra nó bởi vì chúng ta để quá nhiều vật trên đường của nó – những tấm phủ do tâm niệm.

Một khi chúng ta khám phá ra rằng hạt giống Phật sống trong ta, rằng chư Phật đều do sự làm việc ở bên trong, song hành cùng với những hành vi có kiểm soát bên ngoài mà thành, thì lúc đó chúng ta có thể có tiến bộ. Những huấn thị ̣đầu tiên cho chúng tôi là: “Không tạo bất kỳ vọng tưởng nào!” Tại sao lại không?

Vọng tưởng phủ bóng tối lên ánh sáng đang chậm chạp lớn dần lên của quý vị và che khuất ánh sáng đó. Ham muốn đưa ánh sáng đó đi sai đường. Vô niệm làm ánh sáng đó tan chảy, chữa lành và biểu hiện đúng đắn. Cùng lúc đó, chúng tôi được hướng dẫn để lễ lạy. Việc lễ lạy tạo ra ánh sáng làm trưởng dưỡng hạt giống Phật tánh, khiến hạt giống Phật tánh bắt đầu tăng trưởng và lưu chuyển. Năng lượng đến từ sự quay ánh sáng trở lại (một cách tự nhiên) có được qua nhiều dạng thức: không nói chuyện, không nghĩ ngợi, không để mắt ra ngoài, không viết thư, không trở nên bực bội, không dễ duôi cẩu thả nào hết.

Mọi suy nghĩ được kiểm soát bởi thanh kiếm trí huệ, nó quan sát tâm trí từ cột trụ điện thoại này đến cột trụ điện thoại kia. “Có tâm niệm nào trong mười lạy đó không? Nếu có, hãy chém chúng! Hãy thêm ánh sáng và bớt bóng tối! Bây giờ, hãy lạy tới bụi cây đằng kia mà không để cho một vọng tưởng nào trỗi dậy. Sẵn sàng chưa? Đi nào!! Chém!! Nam mô Thường Trụ, chém!! Ta bà ha! Ba la mật! Giờ thì đi tiếp tới trụ hàng rào kế tiếp kia… chém!!". Bên trong trở nên nhẹ nhàng hơn sau mỗi cái lạy và sau mỗi lần chém. Dường như có một cái gì đó tồn tại ngoài chiếc kính suy nghĩ vạn hoa. Tôi cần phải đóng miệng lại để tìm hiểu. Thật sự chấm dứt nói chuyện ở bên trong và cả bên ngoài.

Không gian kế tiếp dành chuẩn bị cho chiến thắng tuyệt vời đối với những tấm phủ do tâm niệm. Kinh sáng. Thọ trai. Kinh tối. Ta bà ha! Ba la mật! (1). Sẽ có ngày thành tựu Bát nhã ba la mật! Nhưng bây giờ thì chưa có thể nghĩ về điều đó. Cần phải vung thanh kiếm cổ sắc bén này nhiều hơn. Chém! Chặt! Ngậm miệng lại! Thêm ánh sáng!!

 

Ghi chú:

(1) Paramita - Ba La Mật - là tiếng Phạn có nghĩa "đi đến bờ bên kia." Đó là, từ bờ bên này sanh tử, vượt qua dòng phiền não ở giữa, đến bờ bên kia Niết Bàn. Tiếng Phạn một ngôn ngữ Ấn Độ, và ở Ấn Độ, khi một cái gì đó đạt được hoàn toàn thì được mô tả là "Ba La Mật." Hoàn thành điều gì đó cũng được gọi là "Ba La Mật", đó là lý do tại sao tu hành thành tựu cũng được mô tả là "Ba La Mật." Nói rộng ra, nếu ban đầu quý vị phiền não, nhưng sau đó quý vị làm cho không phiền não, đó là "Ba La Mật". - Kinh Hoa Nghiêm Lược Giảng - Hòa Thượng Tuyên Hóa.

(Paramita is a Sanskrit word which means "gone to the other shore." That is, from this shore which is birth and death, one goes over the flow of afflictions in between, and reaches the other shore which is Nirvana. Sanskrit is an Indian language, and in India, when something had been achieved fully, it was described as "paramita." Completing something was also called "paramita." That's why for cultivation to be brought to accomplishment is also described as "paramita." By extension, if to start with you have afflictions, but later you manage not to have afflictions, that is "paramita." http://www.drbachinese.org/vbs/publish/267/vbs267p004.htm ).

 

 

Hằng Triều - 01 tháng 8, 1977

Tôi không thích những màn cửa mới này



Lạy qua khu thương mại ở Ventura. Hai người phụ nữ ở bên ngoài nhà hàng Warren:

“Các anh là người của nhà thờ à?”

“Chúng tôi là tu sĩ Phật giáo”

“Ồ, ra vậy. Tốt. Tu sĩ Phật giáo”.

Người phụ nữ thứ hai: “Hả? Họ là ai?”

Người phụ nữ thứ nhất: “Những tu sĩ Phật giáo”. (nói rất to)

Người phụ nữ thứ hai: “Ồ, ra vậy. Tốt đó… tôi không thích những chiếc màn cửa mới này trong nhà hàng Warrens…”

 

Lạy suốt cả ngày như thế.

 

 

Hằng Triều - 02 tháng 8, 1977

Bà có muốn bản thông cáo của chúng tôi không?


Lạy qua trụ sở truyền giáo cũ của San Buenaventura trong buổi sáng sớm nay. Một người phụ nữ quỳ xuống, tay nắm chặt tràng hạt mân côi và bắt đầu khóc, sám hối ngay cạnh chúng tôi.

Phật giáo vẫn còn mới mẻ ở nước Mỹ. Nó đưa ra rất nhiều câu hỏi và ý kiến mà tôi không luôn luôn sẵn sàng cho những điều đó. Đôi khi chúng thật hài hước.

Có những lúc thấy rõ, nhưng đôi khi lại an toàn và nguy cấp. Trong mọi trường hợp, chúng tôi cố hết sức để làm cho rõ ràng. Và phần lớn chúng tôi đạt được là từ những gi mà chúng tôi đang làm chứ không nhiều lắm từ những gì mà chúng tôi nói.

Ví dụ, rất nhiều người ngạc nhiên khi thấy chúng tôi là “những người Mỹ bản xứ” nói tiếng Anh. Một hôm, một người phụ nữ tới và kinh ngạc khi tôi trả lời bà ấy bằng tiếng Anh. “Tôi muốn anh (chỉ về phía tôi) biết rằng, cái này (bà đưa túi trái cây ra) từ Chúa trời của tôi trên đó (chỉ tay lên trời), người ngự ở trong tôi (kéo ngón tay đang chỉ trên trời về phía tim bà ta) gởi tới các anh (chỉ vào tôi lần nữa)”. Bà ấy làm như thế ba lần trước khi tôi có thể nói, “Bà có muốn nhận bản thông cáo này giải thích về chuyến hành hương của chúng tôi không?” Bà ấy há hốc miệng.

Brad, một người trượt sóng tại địa phương xuất hiện để hướng dẫn chúng tôi tới một con đường cũ song song với đường xa lộ. “Khi các thầy tiến xa về phía bắc, tôi sẽ trông chừng cho các thầy. Tôi biết một vài con đường cũ mà các thầy có thể đi qua”. Anh ta dừng lại vì thấy chúng tôi đang bước đến gần đấu đường xa lộ và lo rằng chúng tôi sẽ quay trở lại hoặc từ bỏ vì chúng tôi không thể đi bộ trên đường xa lộ. Có rất nhiều người góp sức để giúp chúng tôi hoàn thành và thực hiện thành công lời nguyện của mình.

 

Lạy trong trạng thái mụ mị.

Trạng thái mơ màng, buồn ngủ này sẽ thỉnh thoảng được hình thành trong khi lạy – hôm nay, khi tôi bắt đầu chìm đắm và trôi ra xa, thì hai mươi mốt câu đầu của chú Lăng Nghiêm khởi động và tôi thấy mình đang niệm và tỉnh lại. Rồi, tôi nhớ lại buổi tối ở chùa Kim Sơn, khi lần đầu tiên chúng tôi bắt đầu niệm phần này của bài chú. Tôi lúc đó đang rơi vào trạng thái mụ mị cuốn hút giống như thế này, khi tôi đột nhiên cảm nhận thấy một sự hiện hữu ở ngay cạnh tôi. Tôi ngái ngủ xoay người để nhìn. Đó chính là Sư Phụ. Một tiếng gõ! Tôi nhận ra mình đang “chìm trong trạng thái Âm”. Ánh sáng của Sư Phụ và dương khí đã kéo tôi ra khỏi trạng thái mụ mị.
 
Một mình đào tuyết bằng giày trượt tuyết trên núi Sierra. Một trận bão lớn đột nhiên xuất hiện. Tôi đào một hang tuyết bằng đôi giày trượt tuyết và bò vào trong để chờ bão qua. Chậm chạp, gần như không thể cảm nhận được, trạng thái buồn ngủ thoải mái, bao trùm và rất lôi cuốn chiếm lấy tôi. Tôi kiệt sức và trạng thái mụ mị dễ dàng lấn vào. Làm thế nào đó mà tôi nhận ra rằng tôi có thể chết nếu cứ để mặc mình chìm đắm trong trạng thái mụ mị đó. Tôi đào tuyết nhào ra khỏi hang và bắt đầu bước đi cho đến khi tôi tìm thấy sự thoáng đãng của đồng cỏ trên núi. Những đám mây tan và nắng ấm, ánh mặt trời đã làm tôi tỉnh lại. Mặt trời là sự sống, còn cái hang thì lạnh cóng và chết chóc.

Tôi không thể nhắm mắt khi lễ lạy được! Tôi phải xoay chuyển những cảnh giới này bằng năng lượng, nếu không, tôi sẽ bị xoay chuyển và bị thủy triều của cảnh giới lôi đi. Không tu hành ở chỗ đó. Phải lưu ý “mọi cảnh giới” – để mặc chúng đến và đi mà không bị lay động. Chắc chắn có một số người thắng, những cảnh giới do tâm tạo nên.
 

 

Hằng Thật. Tháng 8, 1977

Sự chú tâm của Thầy ấy thật hoàn toàn

 

Ra khỏi Santa Barara.

Một trong những hình ảnh ưa thích của tôi về cuộc hành trình này: Tôi đang đứng trên bãi cỏ khô của một cái cống bên ngoài xa lộ 101, nơi tôi vừa mới đi vệ sinh. Mặt trời lúc 5h chiều trong buổi chiều thu đầu tiên tạo ra những bóng vàng lấp lánh trên suốt hai hàng rào chắn đường bằng cây giọt băng (ice plant), những chiếc xe tải lao nhanh, những lùm cây chanh màu xanh thủy tinh lấm chấm trên những ngọn đồi phía trước. Thầy Hằng Triều đang đứng trên lề đường đất hẹp của xa lộc, vai đeo chiếc túi màu vàng đựng mọi thứ đang chờ tôi quay lại và bắt đầu lạy. Trong khi chờ đợi, thầy ấy lôi ra một bản cũ nguyệt san Bồ Đề Hải và hoàn toàn bị thu hút vào đó. Sự chú tâm của Thầy ấy thật hoàn toàn; thầy ấy hòa vào tiếng xe giao thông gầm rú vang như kim khí khi chúng vượt qua chỉ cách thầy vài inch (1 inch = 2.5 cm) và gương mặt thầy ấy bừng lên vẻ sung sướng giống như đứa trẻ cười toe toét khi thầy ấy đọc những lời dạy của Hòa Thượng Trụ Trì trong buổi nói chuyện của khóa thiền mấy năm về trước:

“Nếu muốn thành Phật, quý vị cần phải giống như con hổ phóng chồm xuống sườn núi! Cắn xé những nghiệp chướng của mình cho đến chết!”

Thầy Hằng Triều nhận thức rất rõ về năng lượng dương và những lời nói của Hòa Thượng là thuần dương.

Khung cảnh có phẩm chất của tấm hình chụp sáng rực mà tôi sẽ nhớ mãi.

 

 

Hằng Triều - Ngày 3 tháng 8, 1977

Thế giới trong thế giới, quốc gia trong quốc gia


 
Chúng tôi đang ở phía Nam cách thành phố Santa Barbara 25 dặm (khoảng 40km) trên một con đường cũ xưa dành cho xe đạp. Nơi đây bị thiếu nước. Chúng tôi chỉ đổ đầy được nửa bình cho các thùng nhỏ đụng nước của chúng tôi tại một công viên tiểu bang. Có một đám cháy lớn ở phía bắc. Hàng trăm gia đình không có chỗ ở.

“… Sám hối quả báo nước lửa đạo tặc, binh đao hiểm nguy khổ sở trong nhân gian."
Sám Dược Sư
 

“Có chúng sanh được sinh ra trong biển tâm niệm; trú ngụ tùy thuộc vào những gì mà tâm trí thấu hiểu. Giống như một phép mầu, ở một nơi mà không có nơi nào”.
Kinh Hoa Nghiêm


Có những thế giới trong những thế giới và những quốc gia ở trong những quốc gia. Tùy theo những gì mà người ta có thể hiểu và “nhìn thấy” chúng xuất hiện. Trong một hố nước thủy triều hay bên trong những cây nấm dưới gốc trái dưa đỏ là những thế giới, những quốc độ đang vận hành độc lập với chính bản thân chúng.
 
Có những quốc độ bên trong những quốc độ, “sinh ra ở trong biển tâm niệm”. Không nói chuyện là một trong số những quốc độ. Khi yên lặng, vô lượng vô biên thế giới va mối quan hệ mà tôi chưa từng mơ đến đã thị hiện. Kiên nhẫn và bố thí làm chấm dứt những thế giới của sự tức giận và keo kiệt, và trong từng hành động đơn giản, mọi thứ trông khác biệt – chúng xuất hiện “giống như một phép mầu”.
 
Chậm dần lại trong khóa thiền hay nhịn ăn vài tuần lễ làm chuyển các bánh răng trục quay của chúng tôi. Những thực tế quen thuộc thành trống rỗng và những thứ mới mẻ xuất hiện“ ở trong một nơi mà không thuộc về nơi nào cả”. Không phải là không giống việc tìm kiếm “những miếng hình ghép trốn mất” trong trò chơi hình ghép, tìm con sóc ở trong một cái giỏ cắm trại ngoài trời hay tìm những hình chim trong vân gỗ của một cái bàn.
 
Tương tự với khu cắm trại. Một nơi hoàn toàn trông có vẻ như không có hứa hẹn gì, rồi đột nhiên, “như một phép màu”, một nơi khác sẽ xuất hiện – giống như lô đất trống ở Marina Rick hay một con đường bị lãng quên. Tất cả đến từ tâm trí và chúng được sinh ra “tại một nơi mà không thuộc về đâu cả”.

Bên trong và bên ngoài, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và từ thế giới ở bên trong thế giới, tất cả hiển lộ “như một phép mầu”. Tất cả những thực tại riêng biệt này, ít nhất là một vạn: bồng bềnh trong một “biển tâm niệm”, tất cả vây xung quanh và xuyên suốt lẫn nhau (viên dung). Thật kinh ngạc.
 

 

Hằng Triều - Ngày 04 tháng 8 năm 1977

Một con người khác của thầy đang hé lộ ra ngoài



Thử nghiệm thiền định: không động tâm hay thân khi những con kiến bò lên chân chui xuống quần và khi chúng diễn hành ngang qua môi, chui vào trong mũi, hay khi ruồi đậu trên mi mắt. Tôi lại thất bại nữa rồi. Mỗi một ngày là một cơ hội để cố gắng làm lại.

Trong lúc đang gom các hạt dưa và làm sạch bên trong trái dưa trước bữa trưa thì tôi có suy nghĩ: “Này, tôi muốn dùng muỗng xúc bỏ bỏ đi và cạo sạch những vọng tưởng trong tâm trí tôi đi giống như thế này”.

 

Một mảnh giấy gởi thầy Hằng Thật từ Hằng Triều:

“Tôi đã không định nói, nhưng tôi sẽ nói vì tôi nghĩ thầy nên biết, vì đôi khi, có những điều chúng ta gần gũi nhất mà chúng ta lại thấy xa xôi nhất. Điều đó có nghĩa là, một con người khác của thầy đang hé lộ ra ngoài. Nó nhún nhường và khiêm tốn. Không cứng nhắc và che đậy bằng sự “bảo vệ”. Không chỉ thị và linh hoạt, nhưng chân thật và dễ tiếp nhận hơn. Mạnh mẽ ẩn trong sự mềm mại – tương phản với một con người khác của thầy mà tôi thường thấy bao phủ và phòng vệ theo kiểu ‘kiểm soát được mọi thứ’. Ngắn gọn và trọng điểm, nụ cười và vẻ duyên dáng thân thiện giả tạo. Tất cả các giai đoạn diễn xuất bên ngoài. Nhìn rất hay".
 
 

 

Hằng Triều - 05 tháng 8, 1977

Tôi không tìm cầu gì cả



Cao thì cần có thấp để mà cao. Bám chấp vào cái cao hay chìm đắm trong cái thấp đều là những sự phân biệt trống rỗng. Trước đây, tôi chưa bao giờ thật sự hiểu điều đó.

Bị xáo trộn bởi những tâm trạng và cảnh giới trong một thời gian dài, tôi vừa mới nhìn thấy chúng cứ như thể chúng đến từ tâm trí phân biệt của bản thân tôi. Tôi cảnh giác với những cái cao cũng như những cái thấp và nghi hoặc những “cảnh giới” bởi vì tôi phẳng lặng.

Có một cái chuông báo động ở bên trong đang vang lớn và hét lên “Cái tôi, cái tôi – báo động về cái tôi”. Vì thế, lúc này tôi chỉ cố hết sức mình trong từng phút và để mặc cái gì đến thì đến, cái gì đi thì đi. Tôi không tìm cầu gì cả – lúc này tôi chỉ đang cố gắng để thực hiện một bước đi vững chắc; bước đi trên Đạo.

Mọi thứ không bớt đi những kỳ diệu. Chúng chỉ hầu hết dường như giống nhau. Đó là một cuộc phiêu lưu rất tĩnh lặng, không ngôn từ hay suy nghĩ nào có thể diễn tả được. Tôi không biết đây là nơi nào, nếu đây là một nơi “nào đó”. Tôi thậm chí không biết nó trông như thế nào nếu nhìn từ bên ngoài. Thật khó để nói lên tất cả những phản ứng khác nhau, nhưng cảm giác nó rất thật và an ổn. Đó là một cuộc sống rất chân thật và không bao giờ nhàm chán.

Và với tất cả tình trạng thường xuyên không đổi của nó, không có một thứ gì dường như là giống nhau và mỗi một phút là một nơi mà tôi chưa bao giờ đặt chân tới.

 

Vì tôi đã chuyển và rời tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ.

Kinh Hoa Nghiêm (Phẩm Thập Địa) (1)

 

Riêng ta hỗn độn, như sóng biển nhấp nhô, như gió thổi trôi dạt không ngừng nghỉ.

Riêng ta khác người, mà quý mẹ muôn loài. (2)

Đạo Đức Kinh

 

Ghi chú:

(1) Kinh Hoa Nghiêm http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem26-ThapDia.htm

(2) Nguyên văn:

我獨悶悶, 澹兮其若海, 飂兮若無止 ...

我獨異於人, 而貴食母.

ngã độc muộn muộn. đạm hề kỳ nhược hải. liêu hề nhược vô chỉ ...

ngã độc dị ư nhân, nhi quý thực mẫu.

Lão Tử - Đạo Đức Kinh (Chương 20)

 

Hằng Triều - Ngày 6 tháng 8, 1977

Làm thế nào mà có quá nhiều chuyện xảy ra như thế

 

Tối hôm qua một số cư sĩ đã đến vào thời khoá công phu chiều và đã đưa chúng tôi trở về chùa Kim Luân vì Hoà Thượng đã đến chùa Kim Luân vào cuối tuần. Cảm giác lạ lùng của chuyến lái xe trở về trong khoảng một giờ đồng hồ qua các đoạn đường mà chúng tôi đã mất hàng tháng để đi qua.

Mỗi một vùng đất hay ngọn đồi hay đường phụ bên cạnh xa lộ mà chúng tôi vượt qua nhanh như nháy mắt trên đường quay ngược trở lại thành phố Los Angeles chứa đầy những kinh nghiệm và sự lớn mạnh dường như trải dài qua nhiều năm đầy cảm xúc và tâm linh. Thời gian và không gian biến dạng hoàn toàn tận gốc: Làm sao mà có nhiều chuyện xảy ra trong một khoảng cách ngắn như vậy? Câu trả lời là tất cả duy tâm tạo và không có đo lường hay chiều kích không gian nào ở đây.

Nhưng rồi lại một lần nữa, luôn là như vậy, những ngày tháng, năm và giờ, các sự phân chia bời những ngày sanh nhật; những kỷ niệm hàng năm, hay trăm năm là ảo giác, ngụy tạo. Nó thật sự có thể làm chấn động cái trật tự an ninh về vũ trụ của quý vị khi chính mình trực tiếp kinh nghiệm được một chút “sự sụp đổ” đó thay vì đọc về nó qua tiểu thuyết khoa học giả tưởng hay nghe nói về nó trong buổi giảng kinh, để rồi trí năng quý vị sẽ dẹp nó vào một ngăn tủ với cái tên “những ý tưỡng xa vời” cho sau này.

Chư Thiện tri thức! Cái tâm lượng thiệt là rộng lớn, châu biến cả thảy Pháp giới, dùng nó liền hiểu rõ ràng. Cái tâm lượng khi ứng dụng ra, thì biết hết thảy cả sự vật. Cả thảy tức quy về một, một tức gồm hết cả thảy, tới lui thong thả, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhã vậy.”

Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn.

 

“Đó là nơi mà chúng ta trụ tâm, là nhà – là cái tâm "Ưng Vô Sở Trụ".

Kinh Kim Cang.

 

“Phật Pháp sinh trưởng từ trong gian khó”.

Kinh Lục Tổ.

Trong việc lễ lạy, khi quý vị đạt tới một điểm mà cơ thể quý vị không thể tiếp tục được nữa và cho dù vậy quý vị vẩn tiếp tục tại vì không có cái ngã và cũng không có sự “lạy” hay “thối lui”. Trong việc lễ lạy, khi quý vị đến một điểm mà tâm quý vị có cảm giác sẽ bùng nổ điên loạn và quý vị vẫn tiếp tục cho đến khi sự điên loạn đó không còn quan trọng hay có ý nghĩa gì nữa. Điều đó xảy ra trong thân tâm là nơi tôi chưa hề biết đến trước đây. Nó vừa đắng lại vừa ngọt. Đắng: tôi nắm hai tay đánh xuống đất và đập đầu lên mặt đất muốn hét lên và khóc nức nở. Ngọt: sau đó không có gì đáng quan tâm. Sự việc trôi qua. Cảm giác bình an giữa nơi giao thông và các luồng gió, không chút sợ hãi, không một mong muốn - chì là trống không, hoàn toàn không. Lúc này mọi ngôn từ, ý nghĩ ngừng bặt.

Cảm giác ấy như thế nào? Viết về nó ư? Vọng tưỡng và cái chấp trong tôi quá nặng nề, quét sạch nó thật là vất vả.

 

 

Hằng Thật - Tháng 8 năm 1977

Đó là một sự sắp xếp lý tưởng cho việc tu hành



Cay đắng
ư? Như thế thật hoàn hảo!

Đó là một sự sắp xếp lý tưởng cho việc tu hành. Chiếc xe mà chúng tôi ăn, ngủ, và tụng kinh trong đó luôn hơi thiếu không khí và quá nhỏ để được thoải mái.

Chúng tôi phải xoay chuyển điều đó lại vào trong tâm trí mình, đặc biệt khi chúng tôi đầy nhiệt sau một ngày lễ lạy. Lịch trình thì mãi mãi luôn quá khít khao. Chúng tôi luôn chạy tới điểm lạy, cố gắng chen vào lịch trình đó là việc cạo râu tóc hoặc may vá hay viết lách trong giờ giải lao. Nếu có những công việc vặt phải làm thì việc ngồi thiền của chúng tôi bị ảnh hưởng tệ hại.

Bữa ăn trưa luôn hết giờ trước khi chúng tôi thật sự ăn xong. Các buổi lễ công phu luôn luôn diễn tiến lâu quá cả những cơn mệt mỏi và đi vào giai đoạn mê man – ngủ gật.

Những con kiến thì điều khiển thế giới và có thể làm dừng bất kỳ hoạt động nào của chúng tôi bằng cách bò xuống cổ áo hoặc vào trong tai. Mọi nơi ở Bắc California đều là đất đai thuộc sở hữu tư nhân và chúng tôi làm công việc “canh chừng cảnh sát tuần tra Malibu” như một thói quen, sẵn sàng bị thử thách trong bất cứ lúc nào, bị người ta đuổi đi khỏi hay bị đánh thức bởi tiếng dùi cui nện liên tục trên cửa sổ. Mặt trời khuất bóng, cái lạnh len lỏi, cơn gió khiến Hằng Thật phát cáu khi mấy chiếc màn cửa và tấm giới y bay phần phật. Một chiếc xe dừng lại và chúng tôi không bao giờ biết chuyện gì tiếp theo: những lời lẽ tốt đẹp và ủng hộ hay những lời nguyền rủa và còn tồi tệ hơn nữa. Dù sao thì chúng tôi cũng phải luôn cảnh giác. Những hòn đá và kiến khiến cho mỗi bước lạy trở thành điệu nhảy bugi-wugi, rồi tiếp đến là giao thông. Quý vị có thể trừu tượng hóa dòng xe cộ lưu thông thành một dòng hơi nước, hay khói của dòng sông kim loại hay có thể thấy nó thật như mọi người ở trong một chiếc vỏ bằng kim loại và nhựa đang chạy với tốc độ cao, như hỏa tiễn bay chỉ cách những chiếc túi da mỏng manh của chúng tôi vài phân (inches).

Đó là một sự sắp xếp lý tưởng cho việc tu hành! Ai mà có thể bám chấp vào túi da mỏng manh được đây?

Vào mọi lúc, tâm trí bị chuyển trở lại với những khiếm khuyết của thân thể này. Sự thôi thúc xoay ánh sáng trở lại và tìm kiếm cái siêu việt trong cõi trần gian luôn hiện hữu. Đó là lý do tại sao điều đó thật sự rất tuyệt vời. Tất cả chỉ là sự thử nghiệm. Cho dù quý vị có ở nơi nào trên thế gian này, trực tâm chính là Đạo Tràng.

 

Hằng Triều - Ngày 7 tháng 8, 1977

Căn phòng sống động với những tiếng cười và sự hài hước

 

Bồ Đề Đạo tràng ở thành phố Los Angeles thật là thanh tịnh! Thật quen thuộc, đặc biệt là với bàn thờ mới, những bức tượng, bức tranh và Hòa Thượng! Giống như sau hàng tuần ở trong những hang dưới đất lại tìm được một lối thóat ra, nhìn lại được ánh sáng mặt trời, biển và bầu trời trãi rộng. Những nơi thiêng liêng gội ra tâm can và làm đầy tâm thức bằng những kho tàng báu vật gia tiếng cười, li trách mắng, những câu chuyện và sự tĩnh lặng của một gia đình thân thiết – những nơi như thế này không dễ tìm được, thật sự rất khó gặp!.

Cúng dường: Quả Trai 20$ thực phẩm: Quả Tướng, Quả Dan và Bà họ Hoàng, bà họ Tạ và quần áo, các vật dụng (đèn và dầu, áo thun, giày). \

Gặp gỡ với đức Hồng Y Vu Bình (gồm có Hòa Thượng, thầy Hằng Thật, Quả Tướng, ông Hsiah và Larry Lee, và tôi).

Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa thời thành tựu nhiều hoan hỷ, nhiều tịnh tín, nhiều ái lạc, nhiều vui thích, nhiều vui mừng, nhiều hăng hái, nhiều dũng mãnh, nhiều không đấu tranh, nhiều không não hại, nhiều không sân hận.

Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Địa

 

Phật Pháp thật tuyệt vời. Nó khiến cho người ta hạnh phúc và hoan hỷ vui thích lắng nghe. Trong suốt những buổi giảng tại chùa Kim Luân, căn phòng sống động với những tiếng cười và sự hài hước. Đó là một loại khôi hài khiến mọi người tr nên tinh tấn hơn thay vì khôi hài làm giảm sự phát tâm và chánh niệm. Đó là một loại cười đặc biệt, làm phát khởi niềm tin, sự phấn chấn khiến cho tất cả những ai nghe thấy liền phát tâm Bồ Đề. Quan trọng nhất là, sự hài hước và tiếng cười trong khi Hòa Thượng chuyển Pháp Luân thì không phải là chế giu ai đ. Không một ai trong toàn thể đại chúng phải bỏ đi vì bị phiền toái hay bị bực tức. Rất nhiều điều đđược thành tựu trong những Pháp Hội đầy hỷ lạc như thế này. Thật là vui sướng khi được tham dự trong đó.

 

Ghi chú:

(1) Kinh Hoa Nghiêm http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem26-ThapDia.htm

Nguyên văn:

菩薩住歡喜地,成就多歡喜、多淨信、多愛樂、多適悅、多欣慶、多踊躍、多勇猛、多無鬪諍、多無惱害、多無瞋恨 http://tripitaka.cbeta.org/T10n0279_034

Bồ Tát trụ hoan hỉ địa, thành tựu đa hoan hỷ, đa tịnh tín, đa ái lạc, đa thích duyệt, đa hân khánh, đa dũng dược, đa dũng mãnh, đa đấu tránh, đa não hại, đa sân hận

 

 

Hằng Triều - Ngày 8 tháng 8, 1977

Rốt cuộc ta không phải là người Thầy tệ lắm

 

Anh Quả Trai lái xe đưa chúng tôi trở lại xe hơi của chúng tôi để ở cảng Hueneone. Chúng tôi dã dành thời gian, có lẽ là quá nhiều thòi gian, để xem lại và tổng hp lại tất cả những li dạy bảo và lời chỉ dẫn sửa đổi sai lầm mà chúng tôi nhận được ở chùa Kim Luân. Đúc kết lại là: “Ta mong các con sẽ giác ngộ. Ta hy vọng rằng các con sẽ khai sáng trí huệ và nhìn thấy chân tâm của mình. Nếu các con có thể làm như vậy, thì rốt cuộc ta không phải là người Thầy tệ lắm. Ta hy vọng các con có thể cắt bỏ lậu hoặc. Đừng nói chuyện quá nhiều. Nói những lời hữu ích. Nếu diều gì không có ích thì đừng nói. Hãy cố gắng hết sức mình!”

Thầy Hằng Thật có vẻ như bị bệnh – viêm họng, cảm lạnh.

 

Hằng Thật - Tháng 5, 1977

Họ không tìm kiếm tiền lương và tiện nghi

 

Tuyệt tận ngôn từ.


Cái mà chúng tôi đang thực hành là Pháp không lời. Điều mà tôi cảm nhận được khi đi trên
đường Đạo thì không thể diễn tả được bằng lời. Mười tám năm học ở trường học để lại một con người tôi hay nói nhiều và lầm lẫn sâu sắc. Cái bằng Cao Học (1) chứng nhận rằng quý vị có thể bơi trong vũng nước nông cạn của ngôn từ. Không một chữ nào tôi đọc được trong những quyển sách trong suốt thời gian đó giúp tôi vượt qua được vùng nước sâu hay cuộc sống.

Chúng ta có quá đầy ngôn từ đến mức chúng gây cản trở cuộc sống. Chúng ta không tin vào kinh nghiệm của chính mình. Chúng ta thích có cái kinh nghiệm đó từ kinh nghiệm của người khác, thông qua bộ lọc của những động từ, danh từ, tính từ. Nó phản tác dụng khi quý vị không mở quyển sách ghi chép của mình ra.

Thầy Hằng Triều đã chứng kiến đám đông lắng nghe Hòa Thượng giảng. Hầu hết mọi người chăm chú, hớn hở, đôi mắt linh động và tiếp thu hết tất cả. Thầy Hằng Triều, Thầy Hằng Chu và tôi cắm cúi vào vở ghi chép, chỉ có đôi tai là hướng ra, ra sức chép lại. Khi Thầy Hằng Triều nói cho tôi biết về kinh nghiệm của Thầy, tôi nhận ra rằng trong tất cả thời gian học vấn của mình, tôi chưa bao giờ đọc lại những điều mà tôi đã ghi lại. Tất cả là sự lãng phí thời gian, lãng phí giấy. Một thói quen vô dụng nhất. Tôi chẳng nhớ thứ gì từ những lớp học đó cả. Tại sao không nhớ? Đó là vì tôi đã không ở đó. Tôi để tâm trí mình vướng mắc vào trong quyển vở ghi chép. Tôi đã chưa bao giờ thật sự tiếp thu học vấn của mình. Nhưng quyển vở yên lặng của tôi thì đã làm điều đó. Tôi không bao giờ quay lại với những quyển vở ghi chép một lần nào nữa. Những ngôn từ ngu ngốc! Nếu để duy trì Phật Pháp cho những người khác thì được. Nhưng nếu để có những ngôn từ thay thế cho kinh nghiệm trực tiếp thì không được.

 

Chúng sanh thức tỉnh,

Vượt thoát trần ai,

Luôn luôn bồi đắp,

Lục Độ Vạn Hạnh.

Hòa Thượng Tuyên Hóa, Mười Pháp giới

 

Bồ tát có nghĩa là “Hữu tình giác ngộ” (Chúng sanh thức tỉnh). Cũng có nghĩa là người giúp giác ngộ chúng sanh hữu tình. Bồ tát đạt được giác ngộ nhờ nỗ lực dụng công. Rồi Ngài chỉ cho những người khác được giác ngộ bởi vì Ngài biết cảnh giới ấy tốt đẹp đến nhường nào và muốn chia sẻ nó. Ngài vượt ra khỏi bụi trần khi tách biệt khỏi các niệm tưởng. Bồ tát sống theo sáu lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Công việc của Bồ tát bao gồm tất cả các hành vi tốt đẹp được kiến tạo để giúp đỡ những người khác trên suốt con đường. Ngài thực hành những phương pháp trong mọi lúc và không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là lý do tại sao Ngài được gọi là bậc giác ngộ. Vậy còn có việc gì khác để làm nữa?

 

Những đệ tử Phật ở Châu Mỹ.

Quý vị có biết được ai khác ngoài những chư tăng và ni Phật giáo, những người đang nỗ lực tột cùng với những công việc tình nguyện mệt nhọc và không nhận một chút phần thưởng vật chất nào cho những việc đó không? Họ không tìm kiếm tiền lương và tiện nghi, không sự cải thiện hay nâng cấp mức sống của mình. Những ngày mười tám tiếng của họ được dành cho việc tiến bộ tâm linh để họ có thể làm cho những người khác được tự do và hạnh phúc. Có ai khác làm công việc này không?

Họ có phải là những người kiêu mạn sẵn sàng chết vì đạo không? Họ trái ngược lại với điều đó. Họ tìm kiếm sự khiêm nhường và tránh sự nổi bật. Họ hạnh phúc nhất khi họ tương ưng với đạo lý trong suy nghĩ, lời nói và hành động. Nếu thấy mình có lỗi họ sẽ sửa. Họ là những đệ tử của đức Phật.
 

 

Ghi chú:

(1) Master of Arts: Bằng Cao Học hay Thạc Sĩ. Thầy Hằng Thật đã có bằng Cao Hoc về Ngôn Ngữ Đông Phương trước lúc xuất gia. Chữ Master còn có nghĩa là bậc thầy, người được xem là nắm vững lãnh vực mình theo học. Trong bài nhật ký này nhấn mạnh dù đã có bằng Cao Học về Ngôn Ngữ, Thầy cũng không có ngôn ngữ để diễn đạt được những kinh nghiệm trực tiếp vi diệu trên đường Đạo.

(2) Nguyên văn Hoa ngữ: http://www.drbachinese.org/online_reading/dharma_talks/TenDharmaRealm/Ten_Dharma_Realm_3.htm

有情覺悟,

跳出塵埃;

六度萬行,

時刻培栽。

“Hữu tình giác ngộ

Khiêu xuất trần ai

Lục độ vạn hạnh,

Thời khắc bồi tài..

http://www.dharmasite.net/bdh18/DanhTuPhatHoc.html

 

 

 

Hằng Triều - Ngày 9 tháng 8, 1977

Ít nhất 3.000 tuổi

 

Hai người đàn ông trong một chiếc xe tải nhỏ thắng két bánh dừng ở dọc đường và hỏi, “Đó không phải là sự tôn sùng đạo Phật ma quỷ sao? Các ông đừng tôn sùng ma quỷ đó!”

“Không thưa các ông, chúng tôi không có.”. Tôi trả lời. “Được rồi, được rồi!” và họ lái xe bỏ đi.

Một vài suy nghĩ bất chợt: Khi còn là đứa trẻ, tôi được dạy về những tôn giáo khác. Các tôn giáo đó là “ngoại đạo” và “tôn sùng tà thần”. Điều hết sức quan trọng là đừng gắn nhãn hiệu lên người khác là xấu hay tốt, và tránh nhìn vào mọi người, mọi vật như là những ma quỷ. Điều cũng rất quan trọng là không làm tắc nghẽn lòng từ bi vốn có của quý vị bằng sự kỳ thị và thù hận ...

Việc “Xoay ánh sáng trở lại” và tìm vào bên trong quý vị những điều tốt và xấu, thiên đường và địa ngục là rất quan trọng nếu chúng ta luôn muốn chấm dứt việc đấu tranh và mọi thảm họa. Nếu quý vị nhìn vào mọi thứ như như là ở bên ngoài tự tánh của chính mình thì sẽ chẳng bao giờ có hòa bình – quý vị không kiểm soát được mọi biến cố và sự việc xảy ra.

Điều đó sẽ đặt những việc xấu ác ra khỏi trách nhiệm của quý vị và hạnh phúc nằm ngoài tầm tay. Thật hết sức phi dân chủ.

 

Tại sao quý vị làm tất cả mọi thứ với tâm hồn và tâm trí của mình mà lại không làm thế với thân thể của mình hay gia đình, thực phẩm hay nhân quyền, nghĩa là trao chúng cho người nào đó. Quý vị sẽ không!

 

Biết người là trí;

Biết mình là sáng.

Thắng người cần sức;

Thắng mình là mạnh.

Biết đủ là giàu. (1)

Đạo Đức Kinh

 

Tôi nghĩ rằng, hành giả chân chánh có thể đi tới bất kỳ đâu trong vũ trụ này vào bất kỳ lúc nào, quá khứ, hiện tại và vị lai, và không cảm nhận sự sửng sốt nào về văn hóa, và thấy tự tại như ở chính nhà mình.

Thường trụ Tam Bảo trở nên sống động trong vài phút hôm nay. Tôi có thể cảm nhận được trí huệ và sự chân thực vĩnh hằng của Kinh.

Mỗi ngày, Kinh trở nên có ý nghĩa hơn, hết sức chân thật ở bên trong. Tôi có thể cảm nhận một chút xíu về mười phương chư Phật bất biến, thường hằng “không sinh, không diệt”. Tuân theo cùng những nguyên tắc và những cách tu tập của tăng đoàn đã có ít nhất 3000 tuổi đưa tôi tiếp xúc với cảm giác của sự bắt rễ vào cách sống vượt ra khỏi nơi chốn, quốc gia và thậm chí bản ngã.

Tôi có cảm giác dường như tôi thật sự gần với nhịp mạch của vũ trụ - một tâm điểm mãi mãi thường hằng và vô tận.

Tôi bắt đầu nhận thức ra rằng việc lễ lạy và vọng tưởng đều giống nhau lúc ở chùa và khi trên đường đi – cũng giống như khi ở nông thôn hay trong thành thị. Cho dù tôi có đi đâu, về đâu, tôi cũng chỉ ở cùng một chỗ: trong tâm trí của mình. Việc đến và đi chẳng làm thay đổi được gì cả, Tâm trí mới là cái đến và đi. Bình tĩnh hay hối hả vội vã, sạch sẽ hay dơ bẩn, tinh khiết hay nhiễm ô có thể có ở bất cứ nơi đâu, bất cứ chỗ nào, bất cứ khi nào với chỉ một niệm. Một căn phòng trống rỗng, yên lặng có thể là một nơi ồn ào nhất trên thế giới; và nơi ồn ào nhất trên thế giới có thể giống như một căn phòng yên lặng, trống rỗng.



Ghi chú:

(1) Nguyên văn:

知 人 者 智,

自 知 者 明.

勝 人 者 有 力,

自 勝 者 強.

足 者 富,

Tri nhân gitrí;

Ttri giminh.

Thắng nhân gihu lc.

Tthng gicường.

Tri túc giphú.

Lão Tử - Đạo Đức Kinh (Chương 33)

 

 

Hằng Thật• Tháng 8, 1977

Thành thật mà nói, tôi hơi lo lắng

Lên đồi và tan chảy.

Trời quá nóng đến nỗi mặt đường trải nhựa sáng lấp lánh và gợn sóng. Bên phía tay trái là đường rầy xe lữa của công ty Southern Pacific, và xa xa, những vách đá dựng đứng đi xuống đến bờ biển lướt sóng. Bốn mươi tám inch (1.2 mét) về phía bên phải, những chiếc xe tải lớn chạy ập ngang, bắn cát sỏi gió và những luồng gió như những cú đấm vào người từ một võ sĩ hạng trung. Chúng tôi đang lạy lên trên đồi trong làn đường dành cho xe đạp và hai trăm thước về phía trước là vòng cung quành sang trái. Tất cả những chiếc xe hơi xe tải và xe cắm trại chạy nhanh hơn cắt vòng cung theo kiểu đua xe và chúng chiếm một nửa làn đường xe đạp để làm thế. Thành thật mà nói, tôi hơi lo lắng. Có thể một trong số những tay lái này vừa mới uống rượu, hay đánh nhau và không nhìn thấy tôi ở đây, trên mép đường này. Ôi, nhưng mà không sao, đó là việc của vị hộ pháp. Công việc của tôi là lạy và ngậm miệng lại. Vung thanh kiếm trí huệ lên, chém vào mọi ý niệm đang bất chợt khởi lên trong đầu, tôi đang hòa theo nhịp độ, bước từ bụi này tới bụi khác, canh chừng sự yên lặng ở bên trong, làm việc và toát mồ hôi. Khi khúc quanh lớn dần dần tới gần, đầu tôi tăng âm thanh và nhiều ý niệm sinh khởi. Những ý niệm này tiêu cực không tốt và rất khó chuyển đổi. Một giọng nói lạ cất lên qua tiếng rè trong tâm, “Để làm được điều này cho đúngh, ông cần phải yên lặng”.

“Tôi biết, tôi biết. Nhưng còn về…”

“Ông có thể làm được. Chỉ cần sử dụng phương pháp. Tu hành theo cách mà ông đang thực hành, ngay bây giờ!”

Thanh kiếm trí huệ vung lên, chém xuống những ý nghĩ đè nén, mọi nghi ngờ, và những nỗi sợ hãi đang che trùm ánh sáng của tôi. Đột nhiên tiếng nói lạ hỏi, “Ai là kẻ đang quá sợ hãi như vậy?”

Tôi tìm kiếm “ai” và mọi mối nghi biến mất, bị chém cho đến không còn gì hết. Một ý nghĩ vụt lóe lên, “Cứ để cho thân mình lạy lên trên đồi. Tại sao lại cản trở công việc bằng rất nhiều những nghi ngờ vô ích như thế? Chân tâm thì không khác con đường. Tôi không phải là chiếc xe tải. Cái nóng biến mất. Không còn nóng hay lạnh nữa. Tiếng sóng biển phía bên trái hòa lẫn cùng tiếng gió thổi bên phải. Cơ thể tôi hoàn toàn thoải mái. Hơi thở kéo về trung tâm của tôi và tâm vọng tưởng của tôi được một phút nghỉ ngơi. Thật là một thử nghiệm thâm thúy. Rồi sau đó nó lại khởi lên vọng tưởng kế đến. “Lạ thật, đó là cái gì vậy? Đó có phải là giác ngộ không? Ông vẫn đang ở đây chứ?”

“Chém!” kiếm vung lên. Trở lại làm việc. Dồn tất cả xuống trung tâm. Chém hết tất cả mấy thứ tạp nhạp này đi. Hãy tiến lên ngọn đồi đó!

 

 

Hằng Triều - Ngày 10 tháng 8 năm 1977

Thay bộ đồ hiệu Levis bằng áo tràng và y giới


Khi con đường quá hẹp hoặc không có vệ đường, chúng tôi lạy theo dấu đường rầy xe lửa. Dường như luôn luôn có một con đường.

 

Bỏ chạy khỏi nhà.

 

“Tất cả chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai. Chỉ vì vọng tưởng và bám chấp khiến họ không thể chứng đắc được”.

Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Những giấc mơ gần đây của tôi, và vọng tưởng gây ra những lỗi lầm như những con kiến, tất cả cùng đang hét lên rất lớn rằng: “Nhà là ham muốn, là bám chấp. Ông phải xuất gia.”

“Xuất gia” là trụ tại nơi trụ rốt ráo - không nơi nào cả. Xuất gia là nỗ lực ngày này qua ngày khác, từ ý nghĩ này tới ý nghĩ khác buông bỏ cái vọng để cái chân thật hiển lộ. Quý vị cố gắng cắt bỏ mọi bám chấp, bởi vì thực tế, chẳng có gì để quý vị có thể bám vào, không có thậm chí chính bản thân của quý vị. Thân thể của quý vị, tất cả mọi thứ và mọi sự sắp đặt mà chúng ta cho là “thế giới có thật” đều là duyên hợp, ràng buộc để đến và đi, mang hình dáng rồi biến mất. “Như những giấc mơ, ảo tưởng, bong bóng và bóng ảnh - mộng, huyển, bào, ảnh” như trong kinh Kim Cang nói.

Vậy như thế cái gì sẽ xảy ra cho quý vị ? Quý vị được tự đo để thật sự về nhà. Từ bỏ “căn nhà vọng tưởng của mình, quý vị có thể khám phá ra thể tánh chân thực của mình”. Trí huê và đức hạnh của chư Phật chỉ là như vậy. Vũ trụ trở thành nhà của quý vị, và tất cả chúng sanh là gia đình. Làm sao có thể khác được?

Xuất gia không dễ như đơn giản cạo bỏ tóc và đổi bộ đồ hiệu Levis thành áo tràng và y giới. Xuất gia là thoát khỏi cách sống ràng buộc. Đạt được tới những đạo lý cao nhất đòi hỏi làm việc chăm chỉ hết sức. Để chấm dứt sự cuốn lôi của mọi vọng tưởng và bám chấp đang phủ lên bản tánh có nghĩa là phải lìa bỏ mọi tham muốn – lìa bỏ những mối quan tâm lớn về danh vọng, thức ăn, tình dục, giấc ngủ và sự giàu có. Không dễ để từ bỏ; lại càng khó để thủ giữ chúng. Nhưng lại rất tuyệt vời nếu cố gắng làm những gì khó khăn nhất cho mình – cố gắng từ bỏ những gì mà quý vị khó từ bỏ nhất. Tuyệt diệu không thể nghĩ bàn!

Khi những đứa trẻ hỏi, “Các ông đang làm gì thế?” Tôi luôn muốn nói rằng “đang bỏ chạy khỏi nhà – đang tìm gia đình của tôi”.

 

 

Hằng Thật. Tháng 8, 1977

Con khỉ trong tâm

 

Có lòng từ bi.

Những chữ quan trọng nhất chạy ngang qua mắt tôi trong khoảng khắc cuộc đời lúc này là kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn. Những ngôn từ này đã thay đổi cuộc đời tôi. Ngày hôm qua, tôi trở về từ chùa Kim Luân với những câu hỏi lớn cần được trả lời. Làm thế nào mà những vọng tưởng lại gắn liền với ham muốn tình dục? Làm thế nào mà ngã kiến, ngã tướng, ngã chấp, pháp chấp kết nối với vọng tưởng và ham muốn tình dục?

Những câu hỏi này được trả lời trong buổi sáng nay khi thầy Hằng Triều đọc kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn như chúng tôi vẫn làm hằng ngày. Câu trả lời là: Nó đến từ ý nghĩ (niệm). Không có "niệm" chính là không có lòng dâm dục! (1)

Không có nghĩ tưởng, thì cái núi tự ngã sẽ không đứng vững nữa. Không nghĩ tưởng, thì sẽ không có bám chấp vào Pháp và sẽ không bị chuyển bởi cảnh giới. Tại sao lại không? Bởi vì khi không nghĩ về cái lạnh trong khi vẫn ở giữa cái suy nghĩ ấy, khi quý vị vô tướng, vô niệm, vô trụ, thì sẽ chẳng có gì như là “cái khác” đang tồn tại ở bên trong quý vị, như thế, chính là huệ tánh viên mãn, quang minh, diệu chân như của quý vị. Tại sao quý vị không thấy nó? Vì các niệm, ngay cả một niệm cũng có thể che mờ chân như huệ tánh và dẫn quý vị đi lạc.

Con khỉ trong tâm trí đang chạy rầm tầm và đập thình thịch lên tường. Nó tung Pháp quá khứ, hiện tại và tương lai xoay tròn giống như những chiếc lá trong gió. Cứ mỗi khi nó tự do chơi, quý vị liền bị trói buộc bởi những suy nghĩ của mình, tạo nghiệp tội hồ đồ và quý vị không trở về nhà với đức Phật, người mà lúc này vẫn đang luôn luôn trông đợi quý vị. Hãy làm cho con khỉ ngừng lại bằng đại năng lực. Đừng giết nó. Hãy chế ngự sự mê mờ điên cuồng của nó rồi thì ham muốn tình dục, bản ngã và tất cả những đồng phạm ích kỷ của nó sẽ đi mất và tránh xa. Mọi bức tường sẽ tự đổ sập xuống và quý vị sẽ cho phép con khỉ được tự do chạy đến giải thoát, hoặc dạy nó cách ngồi yên lặng một cách hoàn hảo. Làm bằng cách nào? Thanh kiếm trí tuệ bao vây lấy con khỉ và khắc chế sự tự do của nó. Nó phải ngừng trò chơi và trò bịp bợm của nó. Tấm gương trí tuệ xoay lại chiếu ánh sáng bên trong. Con khỉ nhìn thấy gương mặt thật của mình và sau đó - bổn lai vô nhất vật. Không có dù chỉ một thứ. Con khỉ đột nhiên được hoàn toàn tự do chơi và chạy nhảy đến vô tận. Cái cũi được mở. Mọi rào chắn bị phá vỡ. Giải thoát.

Nói lại lần nữa. Tất cả mọi thứ mà quý vị biết đều là niệm. Đều do tâm tạo. Thanh kiếm bát nhã chém đứt mọi niệm – tất cả niệm.

Khi quý vị làm việc cực nhọc đến mức nào đó, thì dũng khí của quý vị sẽ tăng trưởng. Khi quý vị thành tâm đến tột độ, thanh kiếm bát nhã sẽ cắt xuyên qua ngay cả những niệm lớn, như niệm vế ngã, nhân, chúng sanh, và sự sống. Phật Pháp thì bình đẳng. Chẳng có gì cao hay thấp. “Trong tự tánh, không có một Pháp có thể tìm đặng” (2). Số không.

 

Ghi chú:

(1) Kinh Pháp Bảo Đàn Lược Giảng - Phẩm Định Huệ - HT Tuyên Hóa giảng thuật http://dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham4_DinhHue.htm

Chư Thiện tri thức! Vô là vô việc gì? Niệm là niệm vật chi? Vô, nghĩa là không chấp hai tướng, không có lòng phiền não. Niệm, nghĩa là niệm cái Chơn như Bổn tánh. Chơn như tức là cái thể của niệm, niệm tức là cái dụng của Chơn như. Tánh Chơn như của mình khởi niệm, chớ chẳng phải con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi mà niệm được. Cái Chơn như có tánh, sở dĩ mới sanh ra niệm tưởng. Nếu cái Chơn như không có, thì mắt, tai, màu, tiếng, đương lúc ấy liền hư hoại.

 

Giảng:

Nay tôi lại muốn, vì quý vị, mà giảng vô niệm, vô tướng, vô trụ. Nếu quý vị có thể vô niệm chính là vô tướng, có thể vô tướng chính là vô trụ. Vô niệm cũng chính là vô sanh, vô tướng là vô diệt, vô trụ – bổn lai không có sanh diệt, không có đúng không có sai. Vô niệm, vô tướng, vô trụ cũng chính là không đúng, không sai, không thiện, không ác, không nam, không nữ. Niệm chính là tà niệm, lúc tà niệm không còn thì làm sao có nam nữ, pháp này thật là diệu! Nếu vô tướng, căn bổn không có ngã tướng, vậy ai lại sanh ra cái tâm dâm dục? Tâm dâm dục chính là niệm, không có "niệm" chính là không có lòng dâm dục, không có lòng dâm dục thì không có ngã tướng, không còn chỗ chấp trước. Lúc không còn chỗ chấp trước, quý vị xem đây có phải là sự tự do chân chánh không, có phải là đã được giải thoát không? Cho nên vô tướng, vô niệm, vô trụ, cũng chính là không động không tịnh, không đúng không sai, không nam không nữ, không thiện không ác. Ðây thật là tuyệt diệu vô cùng! Quý vị nếu nghiên cứu sâu sắc thì có thể thọ dụng vô cùng.

Lục Tổ Ðại sư lại nói:

–Quý vị Thiện tri thức! Tôi giảng chữ này, thì vô cái gì? Chữ niệm này, thì niệm thứ gì? chính là không có hai tướng, không những không có hai tướng, ngay một tướng cũng không có, không có tâm trần lao. Tâm trần lao chính là chỉ cái tâm không chính, cũng chính là tâm tà, tâm tà cũng chính là dục tâm.

Cái gì gọi là niệm? Niệm có nghĩa là nhớ, tức là cần phải nhớ Chân như tự tánh? Nhưng cái gì là Chân như tự tánh? Tức cái tánh mà bổn lai đã có, cũng chính là Như Lai Tạng tánh, cũng chính là Phật tánh. Chân như chính là bổn thể của niệm, mà niệm chính là vận dụng của Chân như.

Có người nói: "Vô niệm cũng chính là không có Chân như."

Quý vị phải biết vô niệm chính là không có hai tướng, chính là bảo quý vị chớ quên mà phải nhớ Chân như. Chân như là bổn tánh của chính quý vị, mà bổn tánh của quý vị là thanh tịnh sáng suốt, không có chỗ nhiễm trước.

Niệm tự tánh Chân như, là chân niệm, không phải là niệm do mắt, tai, mũi, lưỡi sanh ra. Chân như có tánh cho nên khởi niệm. Chân như cũng chính là tánh vương, cũng chính là điều đã giảng ở trên (phẩm Nghi Vấn): "tánh còn vua còn, tánh đi vua mất," cho nên nói Chân như nếu không có, thì mắt, tai, sắc, thanh lập tức hoại.

 

(2) Kinh Pháp Bảo Đàn Lược Giảng - Phẩm Bát Nhã - HT Tuyên Hóa giảng thuật http://dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham2_BatNha.htm

Sao gọi là Ma ha? Ma ha nghĩa là lớn, tâm lượng rộng lớn cũng như hư không, không có bờ mé, cũng chẳng phải vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không trên dưới dài ngắn, cũng không giận không mừng, không phải không quấy, không lành không dữ, không có đầu đuôi. Các cõi Phật thảy đều như hư không. Cái diệu tánh của người thế gian vốn là trống không, chẳng có một pháp gì trong đó mà tìm đặng. Cái tự tánh Chơn không cũng giống như thế.

Chư Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói "không" mà liền chấp "không." Nếu để tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là chấp cái "vô ký không."

 

Hằng Triều - 11 tháng 8, 1977

Thức dậy lúc 3 giờ 45 sáng và bắt đầu một ngày mới

 

Thầy Hằng Thật vừa viết vài dòng cho tôi như sau: “Đến phiên người đó bắt đầu từ bỏ loài người và trở thành một con chim chết – chết thật. Từ bây giờ trở đi tôi sẽ cố hết sức để lại hết các việc quan tâm chuẩn bị của tất cả những con chim cho thầy lo – để không nghĩ ngợi, không bàn luận và không trông ngóng những thứ này nữa …” (như quan tâm về lương thực, công việc cần phải làm, báo chí, xe hơi, v.v…). “ … khi thầy cạo tóc, tôi cũng sẽ cạo. Khi thầy giặt đồ, tôi sẽ giúp. Khi có một số việc cần làm, hãy giao cho tôi một việc. Tôi có quá nhiều thứ vọng tưởng mờ nhạt vụn vặt vùng ranh giới để có thể được giác ngộ - nói chuyện quá nhiều, tham lam phan duyên. Kể từ bây giờ, tôi hy vọng sẽ khá hơn về điều này, tôi sẽ lạy hoặc ngồi thiền hoặc trì niệm hoặc đọc hoặc viết, chỉ thế thôi. Thầy nghĩ thế nào về tất cả những điều này?”

Trả lời: “Thầy thật mới mẻ. Không nói chuyện, dự tính không làm chuyện lặt vặt tầm thường là rất đúng. Khi thầy đang viết, tôi cũng đang cố gắng suy nghĩ về các cách siết chặt những con ốc vít của chính mình. Tất cả các sự việc là do tâm (cũng giống như tiếng lạch cạch của những chiếc ốc vít lỏng lẽo gây ra rất nhiều tiếng ồn), nhưng trước hết là hết sức hạn chế mọi chuyện trò và “giao tiếp” với những người khác, và như đã đề nghị, “hãy để việc lễ lạy nói lên”".

hằng ngày, tôi muốn kiểm tra những con ốc vít, muốn tìm cách để giảm sự rò rỉ rồi mặc cho chuyện gì đến thì đến… bao nhiêu mạng sống nữa?

Một con chim đã chết hoàn toàn và một con chim nữa chắc có lẽ cũng thế. Không tệ chút nào!

 

Chim Anh Vũ:

Ý từ phương Tây lại,

Ý từ phương Tây lại,

Thỉnh Ngài dạy con cách thoát lồng này. (1) 

Ngài Bồ Đề Đạt Ma:

"Muốn thoát khỏi lồng,

Muốn thoát khỏi lồng,

Hai chân duỗi thẳng,

Đôi mắt nhắm nghiền,

Đây là diệu kế,

Giúp con thoát lồng."

 

“Tâm lượng thì rộng lớn, nó chẳng theo con đường nhỏ đâu. Miệng đừng trọn ngày nói không mà trong lòng chẳng chịu tu hạnh ấy”. (3)

Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn

 

Thói quen và những nhứ nhỏ nhặt khác

“Hành trình ngàn dặm khởi đầu từ bước đầu tiên" (4)

Mọi việc, tất cả mọi việc chỉ là câu hỏi về thói quen”.

Hòa Thượng Tuyên Hóa

 

Sự tu hành có thể khá trơn trượt và vi tế. Rất nhiều những thứ nhỏ bé nhưng lại rất nguy hiểm – ví dụ như nhện độc (Black Widow) hay rắn hổ mang (Cobra Snakes) hay phóng xạ hạt nhân. Có vài buổi sáng, chúng tôi tả tơi sau những giờ nghỉ ngơi gián đoạn thất thường của đêm hôm trước (phải di chuyển vì cảnh sát, đấu tranh gay gắt ở bên trong nội tâm v.v…) Sau khóa công phu sáng, 5-6 giờ sáng, người ta có thể đi ngủ lại. Nhưng phải cảnh giác!

Sáng nay tôi ngủ trở lại sau giờ công phu sáng và chìm đắm vào một giấc mơ hắc ám, trong một căn nhà có đầy dẫy những cái bẫy và những mối nguy hiểm. Căn nhà cũ kĩ và đổ nát với những con nhện độc (Black Widow) đang rình rập phục kích ở tầng hầm và lửa đang cháy, rắn v.v… Còn có phần giấc mơ tôi bỏ bê các dụng cụ và thiết bị - trì hoãn và chậm lại. Và cuối cùng, tôi gần như đánh mất đi hạt giống của mình.

Về cơ bản, những vị Hộ pháp giữ gìn canh chừng “những vật báu” và thiết bị của chuyến hành hương. Ở một mức độ sâu hơn, điều này có nghĩa là bịt chặt mọi sự lậu thoát của bản thân mình và của người mà mình đang hộ pháp. Bằng cách nào?

Cho tới bây giờ, bằng những phương thức "nhỏ nhặt" như 1) đúng giờ. 2) hạn chế nói chuyện bừa bãi. 3) không ăn quá độ hoặc tiêu thụ quá nhiều chất ngọt (quá nhiều đường). 4) dẹp bỏ “bản ngã” muốn trở nên nổi tiếng từ những cuộc phỏng vấn của báo chí và cái bẫy tôn thờ anh hùng. 5) không nói luyên thuyên với ai. 6) và bây giờ thì sự ngủ nghĩ. Tại sao lại ngủ?

Có một lý do để thức dậy lúc 3:45 sáng để bắt đầu một ngày. Thời điểm này tương ứng với lúc khí Dương bắt đầu tăng dần lên trong chu kỳ của một ngày. Đó là lúc sự ham muốn và hỏa (fire) mạnh mẽ nhất. Nếu quý vị có thể thức dậy và chuyển hướng nó thì quý vị có thể tôi luyện thành một cái gì đó có giá trị. Thức dậy khi trời còn tối và lạnh lẽo là điều không dễ dàng trong những ngày đầu. Nhưng đó là thói quen và thói quen thì có thể thay đổi và bắt đầu lại với không quá nhiều căng thẳng.

Cứ như thế quý vị cắt tỉa và mài dũa những đầu nhọn và góc cạnh cho đến khi quý vị trơn tru và lăn đi mà không còn một chướng ngại nào nữa – cho đến khi quý vị “ở trong cảnh giới như như bất động”. Rốt ráo thì mọi chướng ngại và vấn đề đều do ngu si mà ra. Thiếu trí huệ và đầy ắp những vọng tưởng, chúng ta tự trói buộc mình vào trong những gút buộc mà chúng che phủ trí huệ và ánh sáng tự nhiên của chúng ta.

Giới luật, các ba la mật và những điều nhỏ bé mà quý vị tự mình khám phá ra từ những hoàn cảnh cá nhân sẽ giúp quý vị cắt bỏ những gút buộc đó. Chúng là những dụng cụ. Và mặc dù tất cả do tâm tạo, nhưng bám chấp và vọng tưởng lại là những lực thói quen tập khí trì nặng rất khó mà từ bỏ. Vì thế nên quý vị cần thay thế những năng lực tập khí xấu của mình cho tới khi sự tinh tấn, bố thí, đạo đức trở thành tự độngCho tới khi kiên nhẫn và trí huệ trở thành bản tánh thứ hai của quý vị.

Đó mới là tu hành! Thật hiệu quả!

Lười biếng, thức ăn, tham lam v.v… là những thói quen “xấu” làm cản trở sự thành tựu Đạo Nghiệp. Chúng nuôi dưỡng âm khí làm nhấn chìm bản tánh quang minh của chúng ta và che phủ tự tánh quang minh bằng ham muốn, ngu si và thêm nhiều bám chấp.

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ:

西來意,

西來意,

請你教我出籠計

Tây lai ý,

Tây lai ý,

Thỉnh nhĩ giáo ngã xuất lung kế

(2) Nguyên văn Hoa ngữ:

出籠計,

出籠計,

兩腿伸直兩眼閉,

這就是你的出籠計。

Xuất lung kế,
Xuất lung kế,
Lưỡng thối thân trực lưỡng nhãn bế,

Giá tựu thị nhĩ đích xuất lung kế.

(3) Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Lược Giảng - Phẩm Bát Nhã Đệ Nhị - HT Tuyên Hóa giảng thuật http://www.dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham2_BatNha.htm

Chư Thiện tri thức! Cả thảy trí Bát nhã đều do trong tánh mình mà sanh, chớ chẳng phải do nơi ngoài mà vào. Chớ dùng lầm cái ý thức. Ấy gọi là Chân tánh tự dụng.

Một chân thì tất cả chân. Tâm lượng thì rộng lớn, nó chẳng theo con đường nhỏ đâu. Miệng đừng trọn ngày nói "không" mà trong lòng chẳng tu hạnh ấy. Cũng như người phàm tự xưng mình là quốc vương, mà rốt cuộc chẳng đạt được gì. Hạng người ấy chẳng phải là đệ tử của ta.

(4) Nguyên văn Hoa ngữ: 千里之行,始於足下 Thiên lí chi hành, Thủy ư túc hạ.

 

Hằng Thật - Tháng 8, 1977

Cái nào thật sự là quý vị?


Tập ảnh: "Đừng bám chấp vào cảnh giới"


Đừng là cái máy chụp hình chỉ nhìn ra bên ngoài mà không thể chụp ảnh cho chính nó.

Đừng nhìn ra bên ngoài và bám chấp vào hình tướng.

Có một lối chơi chữ trong tiếng Trung Hoa: chữ chau hsiang (1). Tùy thuộc vào cách viết sẽ có nghĩa là “chụp ảnh” hoặc là “bám chấp vào hình tướng”. Điều kỳ diệu của nó là chức năng của hai từ ngữ này như nhau. Cả hai hành động này đều nói Pháp cho chúng ta nghe.

Nhìn vào những bức ảnh trong tập ảnh của gia đình quý vị. Có ảnh của quý vị ở Công viên Quốc Gia Yellowstone, mới sáu tuổi. Kia là mừng sinh nhật tròn mười tuổi – một bữa tiệc đầy bất ngờ. Rồi lễ tốt nghiệp trung học: Đứng cao thẳng. Nhưng có một điều rằng: không có bức ảnh nào trong đó giống như quý vị vào lúc bây giờ. Ai là người trong những bức ảnh đó? Cái nào thật sự là quý vị? Rõ ràng, mọi thứ biến đổi. Cái máy chụp hình nhìn ra bên ngoài thế giới và bắt lấy một hình ảnh, và dừng hình ảnh đó lại, lưu giữ sự dối trá của sự bất biến.

Khi quý vị tu Đạo, quý vị không thể giống như cái máy chụp hình. Nếu quý vị dính mắc vào bất kỳ cảnh giới nào, hay hoàn cảnh nào hoặc cảm thọ nào và cho đó là thật, khi ấy quý vị đã tách biệt mình ra khỏi bản tánh chân thực (chân như) của Phật tánh của quý vị rồi.

Phật tánh của quý vị không động chuyển, luôn cố định, thường hằng tĩnh lặng. Phật tánh này không dung chứa các pháp hay cảnh giới nào mà có thể nắm bắt hay đạt được. Tất cả các Kinh đều nói như vậy. Nếu quý vị chọn ra vài Pháp nào đó và cố gắng giữ cho nó đứng lại, thì quý vị chỉ giống như một cái máy chụp hình, đang cho thấy một cảnh giới chứ không nói lên được sự thật của sự biến dịch. Máy chụp hình không thể tự chụp hình của nó giữa sự biến dịch. Quý vị không thể nhìn thấy Phật tánh ở bên trong bằng cách bám chấp vào hình tướng hay cảnh giới.

Chỉ bằng cách tu hành một pháp môn với sự quyết tâm vững chắc và với sự tinh tấn thường xuyên thì quý vị có thể thành công. Giữ một niềm tin thanh tịnh vào sự không sinh, không nhiễm, bất biến và bản tính rỗng lặng của bản lai chân thật (chân như). “Phật Pháp như biển lớn, chỉ có lòng tin mới có thể vào được”.

“Niềm tin là nguồn của Đạo, là mẹ của tất cả công đức”.

“Niềm tin sẽ chắc chắn đưa ta tới Như Lai địa”.

(Phẩm Hiền thủ thứ mười hai – Kinh Hoa Nghiêm)
 


Ghi chú:

(1) Hai từ ngữ 照 相 chiếu tướng (chụp hình) và 着相 trước tướng ( bám chấp hình tướng) đều phát âm là chau hsiang tương tự nhau.
 

 

Hằng Triều. Ngày 12 tháng 8, 1977

Ngay lúc tôi động niệm

 

Ngồi thiền vào lúc tờ mờ sáng, tôi nhận ra rằng đúng ngay lúci động niệm, tôi bắt đầu tạo ra mọi thứ để gây ra và tạo thành nghiệp chướng. Bằng thân, khẩu, ý các hình tướng được tạo nên: giết sâu bọ, cầu nguyện trong chánh niệm, nói chuyện thị phi, một lời tử tế, vọng tưởng về thức ăn, tâm niệm từ bi, những ký ức cả thanh tịnh lẫn ô trược.

Tất cả chúng đều sanh khởi tăng dần lên giống như giao thông dồn lại và đông nghẹt thành kẹt xe trong giờ cao điểm, hay giống như sân trường học ồn ào và tấp nập hơn với mỗi chiếc xe buýt vàng chở đầy học sinh đến sân trường. Từ sự tĩnh lặng trở thành sự một rạp xiếc với những hành động và các hậu quả.

Một ngày nào đó, cả ngày sẽ trôi qua với tâm trí và thân thể thanh tịnh, tĩnh lặng giống như hồ nước nhỏ trên núi, nơi không có gió thậm chí không có cả đến một con bọ nhỏ bé nhất để tạo ra bất kỳ một gợn sóng nào. Và tuy thế những việc cần làm thì sẽ được làm.

Làm mà không làm, việc mà không việc (1)

Đạo Đức Kinh - Lão Tử

 

Như khát tưởng nước mát

Như đói mơ món ngon

Như bịnh cầu thuốc hay

Như ong tham mật tốt.

Chúng tôi cũng như vậy.

Mong nghe pháp cam lồ. (2)

Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Địa thứ 26

Là những người xuất gia tu hành, Kinh thay thế cho lửa trại ấm áp và bữa tối ấm cúng khi cắm trại. Phật pháp làm thỏa mãn như nước mát và đồ ăn ngon, Phật pháp thanh lọc tâm ý và cơ thể đầy bụi bặm của chúng tôi vào cuối ngày.

Lửa trại và bữa ăn gợi cảm giác về mái gia đình, một cảm giác an toàn trở về tâm điểm vì khi màn đêm buông xuống làm ta thấy bơ vơ, nguy hiểm – cô đơn và tách biệt.

Sau khi thiền và đọc kinh, thì bất kỳ nơi đâu chúng tôi dường như đều cảm thấy an ổn và quen thuộc. Các Pháp cam lồ này là ngôi nhà xuất thế gian của chúng tôi, làm rực lên ánh sáng bên trong sáng hơn, ấm hơn bất kỳ ánh lửa trại nào, và chẳng có khói để phải phiền lòng.

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ:

爲無爲, 事無事

Vi vô vi, sự vô sự

Đao Đức Kinh, Chương 63.

(2) Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Địa thứ 26 http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem26-ThapDia.htm
 

 

Hằng Thật. Tháng 8, 1977

Mặc kệ gió

 

Chuyển ruồi, chuyển gió.

Côn trùng là một thứ rắc rối. Tôi nhận ra cái “rắc rối” là đều ở trong tâm tôi. Phân biệt giữa các Pháp và bị gặp rắc rối. Tại sao tôi lại phóng ra năng lượng tiêu cực lên côn trùng? Thật là một sự lãng phí ánh sáng ngu ngốc. Hãy xem chúng bình đẳng, tự nhiên, thuộc về Pháp giới, thì sẽ chẳng có sự khác biệt giữa những con chim đại bàng và con người. Hãy lấy lại ánh sáng mà ông đã lãng phí. Hãy buông xả sự căng thẳng. Hãy buông xả sự cau có. Thôi không đập ruồi nữa và đột nhiên thế gian sẽ bừng sáng lên một chút, rộng lớn thêm rất nhiều, và ông đã giải phóng rộng lớn thêm nhiều không gian bằng như thế. Ông được tự do di chuyển giữa các côn trùng mà không sợ hãi hay phiền toái.

Gió là một thứ rắc rối. Khi gió thổi, thế giới xoay cuộn trong không khí. Các y áo bị hất lên và xộc xệch, đột nhiên mọi thứ cảm thấy lạnh. Mũi chảy nước. Những tiếng ồn gầm rú rít lên; áp lực đến phỏng da. Bắp thịt đông cứng trong căng thẳng. Thật phiền toái. Nhưng hãy chờ đã. Làm thế nào để không có gió? Nó thật sự hiện hữu trong thế giới. Nó sẽ chẳng đi đâu cả. Tại sao lại phân biệt gió và không gió, dễ chịu và không dễ chịu? Ông tự làm cho mình không vui vẻ và căng thẳng khi có gió. Hãy nhớ những con ruồi. Mặc kệ gió. Thế thì gió làm gì với ông? Ông cần phải làm việc của mình, hãy thanh tịnh ý mình và đừng bao giờ để ý tới những cảnh giới gì đang diễn ra chung quanh mình.

Thật kinh ngạc! Thế giới đột nhiên rộng lớn hơn và đôi bàn tay tôi trở nên ấm áp hơn, định lực quay trở lại. Lửa đột nhiên tàn lụi. Nhưng cũng đừng để cảnh giới lay chuyển. Cứ tiếp tục lạy. Đừng bám chấp vào các Pháp. Đừng quá bị vướng mắc như thế. Gió không còn là một thứ rắc rối nữa. Tại sao ta không nhìn tham dục cũng theo cách như vậy?

Sự khác biệt lớn là gì?

 

 

Hằng Triều - Ngày 13 tháng 8, 1977

Nó đã có trong lịch trìnhChỉ là tôi đã quên mất


Những cái túi ngủ của chúng tôi bị đánh cắp. Trong bốn đêm vừa qua tôi đã hai giấc mơ về điều này. Bằng cách nào đó, chẳng có gì đến với quý vị nếu nó thật sự không phải đã là của quý vị. Mọi việc không xảy đến với quý vị, nhưng quý vị là những việc đang xảy đến.

Điều này thật khó giải thích, nhưng nó có vẻ đúng từ những gì tôi kinh nghiệm qua. Tối hôm qua, đúng ngay lúc tôi vói tay lấy cái túi ngủ và nhận ra rằng “Nó mất rồi”, tôi đã có ngay một chút cái thấy trước, cái thấy đã thấy qua (déjà vu). Cảm giác là “Ồ, đúng rồi! Bây giờ thì tôi nhớ ra rồi. Đây là phần của chuyện phải xảy đến. Nó đã có trong lịch trình. Chỉ là tôi đã quên mất, thế thôi”. Cũng giống như nhìn toàn bộ cuốn phim sau khi đã xem phần giới thiệu phim hai hoặc ba lần rồi. Khi những cảnh trong phần giới thiệu phim xuất hiện, quý vị liền nói, “Ồ, đúng rồi. Tôi nhớ cái đó”. Nó hợp lý và ăn khớp. Những cái túi ngủ bị đánh cắp cũng ăn khớp.

Phần lớn của chuyến đi này cũng giống như thế. Nhưng thay vì mang đến sự bực bội và thất vọng, thì những sự việc này thật nghịch lý là lại có tác dụng xoa dịu và làm thăng bằng. Bằng cách nào đó, việc chấp nhận những chuyện này (tốt và xấu) đều là phần của việc hiểu biết chính mình. Và vì thế, những sự việc xảy đến với quý vị thì chẳng qua là những gì quý vị đã làm cho nó xảy ra. Thời điểm của sự việc quay trở lại và quả báo không luôn luôn là “ngay lập tức” nhưng nó luôn luôn quay trở lại và càng lúc nó càng chẳng có gì ngạc nhiên và đôi khi lại quen thuộc, giống như nó đã xảy ra rồi.

Thầy Hằng Thật vẫn còn bịnh. Thầy đang nỗ lực cố gắng để không bịnh – vẫn lạy và duy trì mọi việc, nhưng năng lực chỉ được một nửa.

 

Sở hữu tham muốn.

Tôi đã nhìn thấy điều này rất rõ trong ngày hôm nay. Tham muốn đến từ chính tôi. Tham muốn thoát ra ngoài do sự phóng chiếu của tôi lên những người khác. Tham muốn không đến từ những người khác hay từ các Pháp. Các pháp không nhiễm ô và cũng không thanh tịnh (bất cấu bất tịnh).

 

Hằng Thật • Tháng 8, 1977

Ông đã uống cái thương hiệu!

 

Ồ, làm thế nào mà những nhãn hiệu này nói Pháp!

Điều này thật sự rất tuyệt vời. Khi tâm trí tạo ra sự phân biệt thì quý vị rời xa trí huệ. Làm thế nào mà điều ấy đã khiến cho những bậc thánh nhân cười đến chảy nước mắt khi nhìn chúng ta, những chúng sanh ngu ngốc va đụng, vấp ngã trong suốt cuộc đời mình để cố xem điều gì đang ở ngay phía trước, nhưng lại bị vấp trượt vì những bám chấp của mình, bị mù quáng vì bản ngã của mình.

Ví dụ điển hình: Chúng tôi mang khoảng mười ga-lông nước, sáu ga-lông nước đựng trong hai chiếc bình nhựa lớn có dung tích ba ga-lông và phần nước còn lại trong những chiếc bình dự trữ một ga-lông mà trước đây từng được dùng để đựng nước đóng chai loại nước giếng suối thương mại. Chúng tôi dùng khoảng chừng ba ga-lông nước mỗi ngày cho tất cả nhu cầu về nước như uống, nấu ăn, rửa, v.v... Chúng tôi lấy đầy nước ở các trạm bơm xăng dọc đường mỗi khi tìm thấy được nước.

Thỉnh thoảng, khi các cư sĩ tới cúng dường, họ mang cho chúng tôi một ga-lông nước đóng chai mới. Ở miền Nam California có hai công ty kinh doanh nước và mỗi lần chúng tôi nhận được một số nước từ hai công ty này, thầy Hằng Triều và tôi đã sử dụng nước này một cách đặc biệt, chỉ dành để uống và nấu ăn. Tại sao? À, bởi vì nước này đặc biệt, bằng cách nào đó, nước này ngon hơn, tự nhiên hơn, đắt hơn so với nước chúng tôi thường lấy ở các trạm xăng. Bằng một thỏa hiệp không lời, chúng tôi đã phân biệt trong cách sử dụng nước của mình.

Ngày hôm qua, bốn ga-lông nước loại tốt nhất, ngon nhất, tinh khiết từ thành phố Los Angeles đến và tôi thú nhận là cái lưỡi của tôi đã chờ đón cảm nhận sự thiết đãi thật sự của nước vùng núi sạch và ngon. Tôi tự hỏi không biết thầy Hằng Triều sẽ phân phối nước như thế nào do chúng tôi có hầu như bằng nhau số lượng nước “tốt” và lượng nước “kém phẩm chất”. Tâm trí tôi giở trò gạt đáng nực cười; tuần trước, chúng tôi nhận được một gallon nước đóng chai hiệu Safeway, mà cho tới trước sự cúng dường ngày hôm qua thì thùng nước này vẫn còn ở vị trí “nước tốt”. Trong tâm trí mình, ngày hôm qua tôi nhìn thấy cái nhãn hiệu nước được quảng cáo rất nhiều xuất hiện và ngay lập tức cho nước Safeway rơi xuống vị trí thứ hai và được ưa thích hơn là nước lấy ở các trạm bơm xăng.

Chỉ mới sáng nay, nước chỉ dùng để uống đó thì bây giờ có thể dùng cho việc rửa và các việc thiết thực khác. “Loại tốt nhất” đã tới và sẽ được dùng để uống với niềm vui thích. Người xuất gia này có thể không uống nhiều, nhưng anh ta biết rõ về nước mình dùng. Một cách tự nhiên. Rồi sau đó cái bong bóng nổ tung. Thầy Hằng Triều đọc lớn tiếng cái nhãn hiệu dán trên bình nước hào nhoáng. “Tươi mát như pha lê. Từ những giếng nước của chúng tôi. Các khoáng chất được khử bởi quá trình i-on hóa. Chỉ một số khoáng chất được lựa chọn để thêm vào nhằm tăng hương vị. Thương hiệu của chúng tôi … để tăng thêm sự chăm sóc và bảo vệ”.

Bị lừa một lần nữa, đồ ngốc. Nước màu xanh lá cây ở thành phố Buelton khi đi vệ sinh còn tự nhiên hơn cả món súp hóa chất của thành phố Los Angeles mà ông đã phan duyên bám lấy. Thật là một trò đùa. Mùi vị của nó thế nào? Tôi hy vọng là nó có vị ẩm ướt và rất giống như các sợi dây xích gông cùm, vì đó chính là những gì mà ông uống mỗi lần ông phân biệt giữa các Pháp và tính toán xem làm thế nào để có cái “tốt nhất” cho riêng mình. Ông đã uống cái thương hiệu! Ông đang phục vụ cho vị thầy tham lam khi ông làm việc cho bản thân mình. Năng lượng mà ông lãng phí trong việc khuấy động nước trong tâm trí ông có thể đã làm sạch được tâm trí của ông rồi. Xin chúc mừng. Thêm một bước nữa trên con đường vô minh si mê. Thêm một cách nữa về việc quay lưng lại với sự giác ngộ và hợp nhất với bụi trần (bội giác hợp trần).

Nước là nước, là nước là trống rỗng.

Tham lam là bản ngã, là bám chấp, là mất mát.

Điểm quan trọng của bài viết này không phải là “Ha, Ha, Quả Chân. Ông thật ngu ngốc. Ông bị bám chấp”. Mà theo như thầy Hằng Triều đã đúng đắn chỉ ra rằng, đó không phải là tin mới. Hơn nữa, nó không tốt. Điểm quan trọng không phải là công ty nước thành phố Los Angeles lừa dối các cư sĩ, những người mang tới cúng dường. Họ cúng dường lên chư Phật nước uống tinh khiết nhất mà họ có thể có được và điều này hoàn toàn đúng đắn. Vấn đề ở chỗ, khi sự tinh khiết gặp phải lòng tham, sự tinh khiết nhanh chóng bị làm vẩn đục. “Sai một ly (cọng tóc), đi ngàn dặm”. Một cọng tóc đó là bản ngã đang tìm kiếm gì đó ở bên trong.

Vì có tham tâm ái tâm. Tham thì có tham trần, ái thì có ái trần, tham thì không được thanh tịnh, ái thì không được thanh tịnh. Tham ái trần cảnh nên phan duyên (níu vương) bên ngoài. Ông phan duyên bên ngoài, thì nội nhiễu (rối loạn bên trong), nếu không có ngoại duyên, thì không có nội nhiễu, ông sẽ được thanh tịnh.” (1)

Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn.- Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng thuật

 

Vô tướng, Vô cảnh giởi.

Nói hay viết về “cảnh giới” hay những kinh nghiệm trong tu hành thì giống như nói chuyện về giao thông. Ít nhiều gì nó luôn là như vậy, luôn luôn vô ích và đôi khi gây hại. Bám chấp vào những chiếc xe hay các cảnh giới và chuẩn bị cho một cú va chạm hay một cú ngã. Cảnh giới vận hành như thế nào?

Về cơ bản không có một Pháp riêng biệt hay một tướng, một cảnh giới nào trong Phật tính mà có thể đạt được, nắm bắt lấy hay lãnh hội thấu đáo được. Mọi cảnh giới và hình tướng thuộc về tâm nghĩ vọng tưởng – vọng thức.

Để nhận ra Phật tánh của chính mình, quý vị cần kéo về lại toàn bộ năng lượng đang chạy ra ngoài tìm kiếm những kinh nghiệm. Ngay khi quý vị tìm kiếm Pháp bên ngoài để thích hay không thích, quý vị đã bước ra khỏi bản thể Phật tính rỗng lặng đồng nhất và mở ra một khe nứt trên mạch năng lượng của mình. Mỗi khi quý vị chọn lấy một cảnh giới nội tâm nổi bật và bàn luận về cảnh giới đó, là quý vị đã đi ra xa và bám chấp vào hình tướng. Mỗi khi quý vị nhìn lại để đánh giá sự tiến bộ hay kiểm tra sự tu hành của mình, quý vị đã tạo ra một bản ngã để trông chừng bản ngã và xem bao nhiêu bản ngã còn tồn tại. Ngu ngốc quá phải không? Thật đau đớn.

Bây giờ thì tôi tin là sau nhiều năm đau khổ về việc cố gắng tìm Phật tánh của mình, là Phật tánh thật sự không ở bên ngoài. Phật tánh chẳng đi ra ngoài để tìm cái tôi.

Phật tánh sẽ không đến từ bất cứ ai khác. Tôi sẽ không tìm thấy Phật tánh trong các hình tướng, các cảnh giới, trong sự tiến bộ, tiện nghi hay đau khổ. Tôi sẽ chỉ tìm kiếm Phật tánh bằng cách sử dụng phương pháp cùng với niềm tin trong sự khiêm tốn và năng lượng thật sự. Chỉ bằng cách tĩnh lặng tâm ý, tôi sẽ thật sự hòa nhập vào tánh Pháp thân . Tôi không thể đứng bên ngoài mà chỉ tay vào Phật tánh được. Tôi cần phải là Phật tánh, để nhập vào Phật tánh, để hòa với Phật tánh làm một, và đó không phải là sự tưởng tượng du hành bằng cái đầu hay cái miệng.

Tôi có một cái thân và vì thế tôi có thể giữ gìn giới luật. Tôi có một cái miệng nên có thể thuyết Pháp. Tôi có tâm ý để có thể quyết tâm chứng Bồ Đề và đưa tất cả chúng sanh tới bờ bên kia.

Không nói chuyện thêm về cảnh giới hay tiến bộ nữa. Mở ra khe nứt đó và bản ngã vọt ra ngoài, ma quỷ ùa vào trong và chẳng ai được lợi cả.

 

Ghi chú:

(1) Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Lược Giảng - Phẩm Cơ Duyên Đệ Thất - HT Tuyên Hóa giảng thuật http://www.dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham7_CoDuyen.htm

Tất cả chúng sanh đều che phủ quang minh của chính mình, vì có tham tâm ái tâm. Tham thì có tham trần, ái thì có ái trần, tham thì không được thanh tịnh, ái thì không được thanh tịnh. Tham ái trần cảnh nên phan duyên (níu vương) bên ngoài. Ông phan duyên bên ngoài, thì nội nhiễu (rối loạn bên trong), nếu không có ngoại duyên, thì không có nội nhiễu, ông sẽ được thanh tịnh. Bên ngoài không chỉ là phan duyên, mà là đủ mọi thứ níu vương của lục trần lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Vì ông phan duyên bên ngoài cho nên bên trong không an tịnh, liền tạo phản. Ðiều này khiến tâm người không được an lạc, sanh ra mọi thứ phiền não. Tâm của ông làm nô dịch cho hình thể, tâm vốn là ông chủ, nhưng nay trở thành kẻ nô lệ của thân thể, cho nên làm nhọc lòng bao Ðức Phật Thế Tôn từ trong định mà dậy, dùng bao nhiêu phương pháp phương tiện thiện xảo, hết lời khuyên bảo, khuyên chúng sanh phải đình chỉ phan duyên, dứt sạch vọng tưởng, không nên giong ruổi bên ngoài tìm cầu, nếu được như thế thì cùng Phật không có gì sai khác, cho nên nói khai Phật tri kiến.

 

 

Hằng Triều - Ngày 4 tháng 8, 1977

Vài con ngựa, hai con lừa, và một con chồn hôi

 

Ở La Conchita: Tony, một người Bohemian địa phương, cho phép chúng tôi dùng sân nhà của ông ta làm chỗ nghỉ ngơi và lấy lại sức. Một ốc đảo với các loại cây cối xanh tươi trong một sa mạc thật sự. Chúng tôi lấy nước, phơi khô quần áo và làm việc của mình.

Một người bạn của Tony đến trong khi chúng tôi đang dọn vệ sinh và anh ta ngồi lặng lẽ quan sát. Cuối cùng, anh ta nói, “Có những rung cảm rất thiện lành và thanh tịnh ở nơi này khiến tôi phải đi ra xem đó là gì. Tôi đã cảm giác có điều gì đó khác biệt khiến tôi tiếp xúc với một điều gì đó, thánh thiện, tôi đoán vậy, từ trong tôi vì thế tôi đến để xem gần hơn. Hy vọng quý ông không phiền lòng”.

Chúng tôi đã hỏi một đám trẻ nhỏ v tên của thành phố này là gì. Chúng nhìn nhau ngơ ngác và rồi một đứa tự nhiên nói, “Cháu đoán là các chú có thể gọi nó là La Conchita”. Và thế là chúng tôi gọi thành phố nhỏ này như vậy.

Thầy Hằng Thật được khá hơn một chút nhưng vẫn chưa khỏe. Chúng tôi cắm trại trên một cánh đồng trống phía dưới mấy cây bạch đàn mà chúng tôi chia sẻ nơi đó cùng với vài con ngựa, hai con lừa và một con chồn hôi sống ẩn dật.

 

 

Hằng Triều. Ngày 15 tháng 8, 1977

Những thứ đó trói buộc tôi vào cái bản ngã của mình

 

Một chiếc xe phóng qua – nước bắn tung tóe – hai quả bong bóng nước đập vào lề đường và nổ tung ngay bên cạnh chúng tôi. Đến và đi. Chúng tôi vẫn lạy. Ai đó dừng lại và tán thán chúng tôi, lạy và cúng dường. Khi người ấy đi, một người “Thiên Chúa giáo” vẻ giận dữ và căng thẳng lái xe tới và lăng mạ chúng tôi vì đã không chỉ tin vào chúa Giê-su và Kinh Thánh mà thôi. Cả hai đến và đi. Chúng tôi vẫn lạy.

Đi vào một thị trấn nhỏ đầy trẻ em, chó, mọi người, đầy những cái nhìn, những câu hỏi và máy chụp hình chung quanh. Khi chúng tôi dời đi, lạy dọc theo những đường rầy xe lửa nằm tách biệt bên ngoài thị trấn, không thấy thậm chỉ một con chim hay con bọ cả hàng giờ đồng hồ. Đến rồi đi. Chúng tôi vẫn lạy.

“Những vấn đề về con bọ” của những ngày hôm qua, hôm nay trở nên nhỏ nhặt và bị lãng quên. Thành phố và vùng quê, yên lặng và ồn ào, thân thiện và khó tính, đói và no, nóng và đổ mồ hôi hay lạnh và đau nhức – tất cả đến và đi, đến và đi. Điều gì ở lại? Cái gì, ai thì không đến và đi? Ai đang lạy?

Một không gian và cảnh giới càng lúc càng biểu lộ trong sáng rõ ràng, tĩnh lặng đang hiển lộ ra mà không có chỗ cố định nào cho các ranh giới: đó là ở đây và không ở đây cùng lúc. Một chiếc xe chạy qua, phả những đám mây xoáy bụi vào chúng tôi. Người lái xe chậm lại và hét lên “Xin lỗi vì làm các anh bị bụi”. Trong một phút, chiếc xe đã khuất tầm nhìn phía dưới con đường. Bụi lắng xuống trở lại. Trời yên lặng và quang đãng trở lại. Trong không gian mới mẻ này, hầu hết mọi thứ gặp trên con đường của chúng tôi dường như giống như bụi trên con đường ấy: đến rồi đi trong chốc lát và không có gì bị xoay chuyển cả.

Vì thế khi thầy Hằng Thật tìm ra bài kệ này của Hòa Thượng trong tờ báo Bồ Đề Hải cũ của chúng tôi, thầy liền chỉ cho tôi rồi nói, “Đúng rồi, đúng là nó. Nó là như vậy đó”

Tám mốt nghi hết tâm cuồng dừng.

Tĩnh quán “Ai kẻ bận rộn đây?”

Tám vạn bốn ngàn “khách” đi hết.

Tự tại không động, vua tánh giác. (1)

Hòa Thượng Tuyên Hóa

 

Những người trẻ tuổi, nhảy múa, nhảy chân sáo trên những đôi chân trần trong những bộ áo choàng dài đầy màu sắc chạy xuống phía dưới con đường hướng về phía chúng tôi. Một sự trở lại thật sự của những người du mục và vô cùng bắt mắt trên con đường xa lộ 101 hiện đại vào lúc đỉnh cao của giờ cao điểm. Họ mỉm cười, lạy và đầy tiếng cười rúc rich, và “những hạt bụi lấp lánh tung ra của thần tiên tinker-bell” giống như lễ hội Halloween – chỉ có điều là trong mùa hè lúc 8 giờ sáng trên đường xa lộ tiểu bang California này.

Trước khi đi, họ vờn quanh và bận bịu làm việc trên chiếc xe của chúng tôi. Buổi trưa, khi chúng tôi quay trở lại, chiếc xe được trang hoàng bằng những tràng hoa. Thức ăn được bày ra ở phía dưới bánh trước của xe cùng với dòng chữ:

“Xin hãy vui lòng chấp nhận sự cúng dường khiêm nhường của chúng tôi. Mong rằng thực phẩm sẽ giúp quý vị no đủ khi đói bụng. Mong rằng, cuộc hành hương sẽ mang lại sự Tỉnh thức sâu sắc và nó sẽ lan ra xa rộng khắp”.

Ký tên Fantuzzi Joyous Lake và những bài hát thiên thần: Từ gia đình bướm.

 

Những bám chấp

Tôi buông bỏ chiếc đệm lại Berkeley,

Tôi buông bỏ lại chiếc xe Volvo.

Tôi buông bỏ máy chụp hình Nikon,

Và cả chiếc đàn Guild yêu thích.

 

Chẳng ai bắt tôi ruồng bỏ chúng cả,

Bỏ hay nhận – đó là việc của tôi.

Những thứ này trói buộc tôi vào bản ngã.

Đó là cách của những sự bám chấp,

 

Tôi không muốn,

Tôi không muốn làm người tình,

Tôi không muốn làm ngôi sao nổi tiếng,

Chỉ muốn giữ gìn giới luật,

Thanh tịnh như chư Bồ Tát.

 

Tôi không muốn ngôi nhà ở Aspen.

Hay chỗ ở tại Malibu.

Tôi chỉ muốn tu hành

Con đường của Phật; ngay thẳng và chân thật.

 

Tôi không muốn chiếc xe thể thao hào nhoáng;

Cũng chẳng muốn chiếc du thuyền,

Chỉ muốn như chư Bồ Tát,

Thanh tịnh trong từng ý niệm.

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn bài thơ bằng Hoa ngữ của Hòa Thượng Tuyên Hóa:

客塵煩

九九惑盡歇心狂、
靜慮思惟是誰忙、
八萬四千由他去、
自在無往覺性王。

Khách Trần Phiền

Cửu cửu hoặc tận hiết tâm cuồng
Tĩnh lự tư duy thị thùy mang
Bát vạn tứ thiên do tha khứ
Tự tại vô vãng giác tính vương.

http://www.drbachinese.org/vbs/publish/7/vbs7p022.htm

 

Hằng Thật. Tháng 8 năm 1977

Để đưa chúng sanh tới bờ bên kia

 

Phải khá lâu thì quý vị mới nhận ra điều đó sao?

Nếu quý vị tán thán Tam Bảo trong từng bước đi, nếu quý vị tán thán kho báu của tất cả trí huệ và lòng từ bi - kinh Hoa Nghiêm - theo từng hơi thở, nếu quý vị lạy sám hối tất cả mọi nghiệp tội trong quá khứ với năm vóc sát đất, nếu quý vị ngợi khen Biển Hoa Tạng của các chư Phật và Bồ Tát khi đứng và nếu quý vị hồi quang một cách thành tâm và sử dụng thanh kiếm bát nhã, và nếu quý vị liên tục quán tưởng về nỗi thống khổ của những người khác, mục đích công việc của quý vị, món nợ của quý vị với tất cả chúng sanh, thì quý vị sẽ chẳng có bất kỳ vọng tưởng nào, chẳng có ngã tướng và cũng chẳng có chút tham cầu hay nơi để trụ vào. Hãy làm đúng. Hãy cúng dường lên chư Phật.

 

Niềm tin, những lời nguyện, và thực hành (Tín, Nguyện, Hạnh) đánh đổ một ngọn núi.

Quý vị quay tới đâu cũng đều gặp thế giới đầy những thứ khổ đau. Chúng ta phải tìm ra những nguyên nhân của đau khổ và chấm dứt đau khổ. Đó là việc quan trọng nhất. Đạo Phật có nhiều con đường để thành tựu được mục đích này.

Quý vị làm điều ấy như thế nào? Bắt đầu bằng niềm tin (Tín). Niềm tin là năng lực để dành của việc tu hành Pháp và thật sự có thể kéo quý vị, ông này, bà kia, và tất cả mọi người ra khỏi biển khổ. Có vô số người đã làm như vậy rồi. Bây giờ đến lượt chúng ta. Quý vị có thật sự muốn chấm dứt những dòng nước mắt và nỗi đau của thế gian này không? Hãy lập quyết tâm kiên cố (Nguyện) để đạt được những mục tiệu của quý vị dù thế nào đi nữa và rồi thì, điều quan trọng nhất là thực hành (Hạnh) theo một phương pháp để mang lại hiệu quả. Niềm tin là nền tảng cuộc sống của người cứu vớt chúng sanh. Những lời nguyện là năng lượng cho việc thực hành và từ đó nhận thức đươc niềm tin.

Giả sử như quý vị đặt ý nguyện của mình theo con đường Bồ Tát Đạo và quý vị nhận ra rằng đau khổ cần phải chấm dứt. Phật Pháp sẽ nói cho quý vị biết rằng Bồ Tát tự giác ngộ cho chính mình và giác ngộ cho những người khác, làm lợi ích cho chính mình và lợi ích cho những người khác; độ chính mình và độ những người khác đến bờ bên kia. Đúng vậy. Chướng ngại trong việc giác ngộ chính mình là gì? Đó chính là sự bám chấp vào bản ngã, cái tôi và tham muốn. Tất cả những thứ này đều đến từ vọng tưởng.

Vì thế, chấm dứt vọng tưởng là tự giải thoát mình khỏi đau khổ. Tuy nhiên, bản ngã thật lớn, lớn như ngọn núi khổng lồ. Quý vị không thể sử dụng bản ngã để phá tan bản ngã được. Điều ấy giống như ném những que diêm vào đám lửa. Quý vị cần phải sử dụng một phương pháp Phật Pháp (Pháp môn). Thực hành pháp môn đó một cách triệt để. Thực hành với niềm tin vững chắc, chân thành và kiên trì không thay đổi. Hành trình có thể gian nan. Nếu không có niềm tin chân thật, chắc hẳn sẽ khó mà tiếp tục tiến bước. Nếu quý vị làm việc chỉ vì bản thân mình, thì sẽ rất khó khăn. Nhưng những lời nguyện sẽ giúp quý vị vượt qua. Khi quý vị quán tưởng về nỗi thống khổ trên thế gian này, thì việc tu đạo của quý vị trở nên rất tốt đẹp. Tu hành quán tưởng bằng với việc có nhiều chúng sanh được cứu. Quý vị càng tu, thì niềm tin của quý vị càng sâu dày hơn, quý vị càng có ít bản ngã, trí tuệ của quý vị càng rộng lớn hơn và những lời nguyện của quý vị càng quảng đại hơn. Khi quý vị thật sự tu một cách vô ngã, quý vị có thể đạt giác ngộ bởi vì quý vị đã tự lạy ra khỏi cái bản ngã của mình. Các vị Hộ Pháp nhận được cảm ứng vì họ quên chính bản thân mình khi phục vụ những người khác. Chỉ tu ích kỷ vì sự giác ngộ của bản thân mình mà không có những đại nguyện để cứu giúp những người khác thì sẽ khó khăn hơn để thành tựusẽ đem lại ít thành quả hơn. Quý vị không thể là một vị Bồ tát ích kỷ.

Bởi vì quý vị đang làm điều hết sức quan trọng và đã nhận thức điều gì là đúng đắn và chánh đáng, đã học những nguyên tắc của cuộc sống và giữ gìn chúng. Bởi vì niềm tin của quý vị là thanh tịnh và những lời nguyện của quý vị còn quan trọng hơn bất cứ điều gì khác; vì quý vị kiên cố đối với việc thực hành tu tập của mình, thành tâmkhông ngừng nghĩ trong mọi hoàn cảnh, tất cả những điều này tạo năng lực cho những cú đấm trúng đích vào những ngọn núi bản ngã của quý vị và chấm dứt mọi đau khổ của quý vị.

Rồi quý vị làm gì tiếp theo? Quý vị vẫn tiếp tục đi như trước đây, chỉ khác là lần này có thêm một số công phu thật sự. Quý vị xắn tay áo lên và lội vào biển khổ để dẫn dắt chúng sanh tới bờ bên kia. Quý vị làm điều ấy như thế nào? Trao cho họ một niềm tin thanh tịnh vào Phật Pháp (Tín). Đó là nơi bắt đầu của việc giải thoát ra khỏi đau khổ.

 

Hằng Triều. Ngày 16 tháng 8, 1977

Những trạng thái đau khổ và bệnh tật sanh khởi và biến mất cùng với ý niệm của tôi

 

Thầy Hằng Thật vẫn rất chậm trong việc hồi phục, nhưng vẫn cố gắng. Tôi mong ước mình là một y tá tốt hơn. Còn thầy Hằng Thật thì mong ước rằng thầy là một bệnh nhân tốt hơn.

Một ngày dài chậm chạp với đầy gió và mùi dầu cặn (diesel) của xa lộ 101 bên tay trái và những chiếc xe lửa Amtrak và xe lửa chở hàng bên tay phải. Yên lặng, làm việc chăm chỉ - rất nhiều thời gian và khoảng trống để nhìn vào bên trong. Trời u ám. Trông giống như sắp mưa.

Cho đến bây giờ có ba lần xảy ra mà từ một trạng thái không thể chịu đựng nổi lại đảo lộn thành tĩnh lặng và thấu hiểu. Lúc đó nổi sân và thiếu kiên nhẫn. Chỉ bằng cách bám lấy và không chịu thua, thình lình tôi nhận thấy mình ở phía bên kia - bình thản và kiên nhẫn. Trước bữa trưa hôm qua, những con sóng vọng tưởng về ham muốn, tình dục và thức ăn, thức ăn, thức ăn cuồn cuộn trong tôi. Chỉ đơn giản là tập trung vào việc tụng niệm, trạng thái lửa đó tan dần trở thành sự thư thái thông suốt, và tôi tự nhận thấy mình hiểu được một câu ở trong kinh mà trước đây tôi đã không thể thông hiểu được. Phương pháp này cũng hữu hiệu để làm ngưng cái lạnh và sự đau đớn nữa!

Nói chung tôi rất thích thú và sung sướng. Chủ yếu là vì tôi đã tìm ra được cách để chấm dứt sự đau khổ mà tôi luôn luôn nghĩ rằng nó ngoài tầm kiểm soát của tôi. Khi đã sử dụng phương pháp này rồi thì tôi có thể chia sẻ. Một trong vài điều mà tôi đã có kinh nghiệm trực tiếp.

“Chúng sanh có thể tự chữa khỏi những bệnh của mình, những căn bệnh chỉ đồng một bệnh.” (1)

Dược Sư Sám

 

Trong trường hợp này, việc lễ lạy và tụng niệm chính là thuốc. Nhưng các thuốc ấy giống hệt nhau:

Thuốc từ bi, hỷ xả, thuốc nhẫn nhục nhu hòa, … thuộc sáu Ba La Mật, … thuốc phản bổn hoàn nguyên, thuốc có lỗi biết ăn năn, thuốc thiện xảo phương tiện …, thuốc thanh tâm đoạn dục. (2)

Sám Dược Sư.

 

Còn bệnh thì sao? nếu nói nhiều pháp ấy là điên đảo (3). Những trạng thái đau khổ và bệnh tật này không đến từ thời tiết hay vi trùng hay đói ăn hay từ những người khác. Chúng được tạo nên từ tâm. Được hình thành từ tâm và cũng được chữa lành bởi tâm. Những trạng thái đau khổ và bệnh tật sanh khởi và biến mất cùng với những ý niệm của tôi. Căn bệnh và thuốc, hoán chuyển qua lại, ”như mộng, huyễn, bào, ảnh”

Đi nói chuyện với cảnh sát thành phố Carpentina về chuyến hành hương, tất cả rõ ràng.

 

Ghi chú:

(1) Dược Sư Sám Pháp http://www.dharmasite.net/samduocsu.htm : Nếu chúng sanh có bịnh, chỉ đồng một bịnh.

(2) Dược Sư Sám Pháp http://www.dharmasite.net/samduocsu.htm : Có bậc Ðại Y Vương tùy bịnh cho thuốc. Những thuốc của Ngài là thuốc từ bi, hỷ xả, thuốc nhẫn nhục nhu hòa, thuốc Chánh Tín Tam Bảo, thuốc cần tu phước huệ, thuộc lục Ba La Mật, thuốc Cam Lồ đầy đủ, thuốc mong cầu pháp vị, thuốc tu tâm dưỡng tánh, thuốc phản bổn hoàn nguyên, thuốc có lỗi biết ăn năn, thuốc thiện xảo phương tiện, thuốc không động thanh sắc, thuốc thanh tâm đoạn dục.

(3) Dược Sư Sám Pháp http://www.dharmasite.net/samduocsu.htm : Nếu chúng sanh có bịnh, chỉ đồng một bịnh, chúng sanh cần thuốc, chỉ đồng một thứ thuốc; nếu nói nhiều pháp ấy là điên đảo.

 

Hằng Thật - Tháng 8, 1977

Chúng tôi đã ở đây một giờ

 

Tại sao kham khổ?
Tại sao chữ
kham khổ lại xuất hiện trong việc bàn luận về sự tu tập? Lý luận của tôi như thế này: Con người theo tự nhiên xuôi theo dòng đời, chọn lấy con đường ít chướng ngại nhất bất cứ lúc nào có thể. Có bao nhiêu người mà quý vị biết lại thích cuộc sống khó khăn hơn? Rất ít. Tu hành chỉ là “làm mọi việc theo cách khó khăn”. Tại sao? Bởi vì bản ngã, cái tôi, khống chế chúng ta trước khi chúng ta trở thành Phật và bản ngã là âm tính, có xu hướng khuếch trương, phân tán và hướng tới một sự tái sinh nữa. Tu hành làm bớt đi cái bản ngã, cuối cùng diệt trừ nó và làm phát sinh thân và ý an định dương tính. Làm thế nào mà người ta đạt được điều ấy? Bằng sự chịu đựng kham khổ, chống lại dòng chảy phục vụ cho bản ngã và thu gom lại vào vùng trung tâm tất cả ánh sáng và năng lượng thường chạy thoát ra ngoài của hầu hết chúng ta.

Ai có thể chịu đựng hầu hết khổ nhọc mà không hề né tránh hay bỏ cuộc? Người đó sẽ đạt được giác ngộ trước nhất. Các tu viện, giới luật, các phương pháp tu hành tất cả được thiết kế để tạo áp lực lên cái bản ngã và tạo ra sự kham khổ. Khi một người kiên trì giữ giới luật và tu hành qua tất cả mọi hoàn cảnh mà không thay đổi hay lay chuyển tâm ý mình, người ấy cảm thấy đau đớn, nhưng nỗi đau chuyển hóa và chẳng còn là điều gì đặc biệt nữa. Lạc thú và đau đớn sau đó được cảm nghiệm như nhau và cái bản ngã mất đi người phục dịch cho nó.

Bây giờ tâm trí là người chủ.

Kham khổ là chìa khóa. Những chuyện gian nan thì sẽ tạo ra đủ kham khổ và làm nhận ra công năng của nó, không lay chuyển cho dù khi nỗi đau lên đến cực điểm. Sự đau đớn khó khăn nhất phải chịu đựng đó là sự đau đớn trong tâm ý. Đau đớn về thể xác chỉ là bước đầu, nhưng cuối cùng, người ta phải đối mặt với cái mà mình ít muốn đối diện nhất. Đó là những thứ bám chấp then chốt trói buộc người ta vào sự phục vụ bản ngã và những thói quen. Tu hành thật sự có thể không nhìn thấy được vì công việc thật sự là ở trong tâm ý. Khi tâm ý bị tổn thương đến cực điểm và quý vị vẫn không lay chuyển, thì quý vị có thể được giác ngộ. Sự đau đớn và kham khổ có giá trị hơn châu báu đối với hành giả.

Thọ khổ thì hết khổ

Hưởng phước thì hết phước. (1)

Nếu quý vị có thể chịu đựng một chút ít đau khổ về thân xác ở mức độ của thế gian thì quý vị hẳn nhiên sẽ đạt thành tựu hoan hỷ xuất thế gian, Pháp hỷ, điều vượt xa hơn hẳn bất kỳ niềm vui thế gian nào. Sự kham khổ không còn là khổ nữa và đau khổ chấm dứt. Ngồi ngay cạnh thầy tôi trong chiếc xe Ford đang chạy nhanh trên đường quay trở lại thành phố Los Angeles. Vài phút trước, tôi đang niệm chú Đại Bi trong chiếc xe Plymouth trong bóng tối của ngôi làng Fandenberg. Rồi đột nhiên được hòa mình trong vòng quanh của Sư Phụ, Quả Kính, Phương Quả Ngộ, Helen Woo, vô cùng sửng sốt.

“Chúng tôi đã ở đây một giờ đồng hồ. Sư Phụ đứng tại góc đường rất lâu, chỉ nhìn về phía xa nơi các thầy đang lạy”. Thế giới đầy vi diệu.

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn Hoa ngữ:

受苦了苦,

享福 消福

Thọ khổ liễu khổ

Hưởng phúc tiêu phúc.

 

Hằng Triều. Ngày 17 tháng 8, 1977

Chúng ta sẽ chờ xem

 

Cúng dường: Clarisse, Vincent và Nicky. Sze-tu mang thức ăn trưa tới và thực phẩm dự trữ - 50 đô la. Quả Tướng và Quả Cao mang thực phẩm dự trữ, bữa ăn - cây viết.

Chúng tôi vừa rời khỏi quận hạt Ventura đi vào hạt Santa Barbara. Trời đổ mưa như trút nước. Cơn mưa trễ mùa ngọt ngào thật tuyệt.

Hai viên cảnh sát thuộc hạt Santa Barbara dừng lại và kiểm tra chúng tôi. Họ đề cập đến quy định của hạt này cấm ở trong xe hoặc những khu vực “không được chỉ định” qua đêm. Điều này có thể là chướng ngại hoặc không. Chúng ta sẽ chờ xem.

Thầy Hằng Thật hồi phục chậm chạp. Một trận bệnh lâu dài và kiệt sức, nhưng thầy ấy đang chiến thắng.

 

Hằng Thật. Tháng 8, 1977

Ép đẩy giác ngộ ra khỏi phiền não

 

Đau khổ và cực lạc đều do tâm tạo.

Điều này ngày càng trở nên rõ hơn khi chúng ta tu tập, chúng ta bị trói buộc vào đau khổ bởi những suy nghĩ của mình. Một phương pháp tốt đẹp có thể giải thoát chúng ta. Lúc đang lạy dọc theo con đường và cảm thấy bị áp lực, tôi bèn nhìn sâu vào bên trong bản chất nỗi đau của mình. Tôi nói với chính mình, “Cách duy nhất mà ngươi có thể chấm dứt nỗi đau của mình là bằng cách sử dụng phương pháp mà ngươi đã được học và bằng cách đi thật sâu vào phương pháp ấy – thật sự khiến phương pháp ấy có hiệu dụng. Ném tất cả những thứ rác rưởi khác ra khỏi đầu của ngươi đi. Tại sao ngươi lại phí năng lượng để cảm thấy không hạnh phúc? Ngươi biết rằng khi tâm trí của ngươi tĩnh lặng thì nỗi đau sẽ biến mất mà. Hãy làm ngay đi.”

Tôi dùng nỗ lực để bước ra khỏi lối mòn của tâm trí và tập trung vào phương pháp lạy. Không bao lâu tôi cảm thấy như thể hàng tấn dây xích rơi rớt ra khỏi người tôi. Đột nhiên, tôi cảm thấy hoàn toàn dễ chịu ngay tại nơi chốn của mình . Chẳng có vấn đề với bất cứ việc gì cả.

Bản chất của sự đau khổ là bám chấp vào các pháp. Người ta bám chấp vào pháp mà mình cho là “tốt đẹp” và chạy tránh những điều mình cho là ”xấu”. Tất cả đều đến từ tâm.

Thầy Hằng Triều mơ về một đứa trẻ bò dọc trên mặt đất tràn ngập ánh sáng và hạnh phúc, vừa bò vừa nói, “Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật”, cùng với nụ cười rang rỡ trên khuôn mặt. Tương phản với hai vị sư trên con đường chính của thành phố với bộ mặt ảm đạm, hàm răng cắn chặt, đôi vai cứng nhắc, đôi mắt căng thẳng đang cố gắng ép đẩy giác ngộ ra khỏi phiền não của họ.

“Đó không phải là phương cách”, thầy Hằng Triều nói.

Đúng rồi, Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật…

 

Hằng Triều. - Ngày 18 tháng 8, 1977

Giống như băng và nước

 

Với “tốc độ” hiện tại của mình, chúng tôi còn cách xa thành phố Carpenteria một buổi chiều, cách thành phố Santa Barbcara chưa đến hai tuần, và cách thành phố San Francisco chừng khoảng một năm. Khoảng cách giữa tâm ý của chúng tôi với cái ngay hiện tại là thước đo.

Một điều nhỏ nhưng thú vị đang diễn ra. Những phương pháp tu hành này trông có vẻ rất ngu ngốc và kỳ lạ nhưng nó lại rất có tác dụng!

Ví dụ: “Chuyển cảnh, đừng bị cảnh chuyển” và “xua đuổi ma quỷ, tìm Phật”. Tôi đã nghe và được Sư Phụ dạy. Trong Kinh, có một đạo lý về “độ các phiền não” giống như trở bàn tay qua lại. “Phiền não và Bồ đề”. Cả hai là những biểu hiện của cùng một thể tính cũng giống như băng và nước. “Phiền não và Bồ đề, băng và nước…” (Thiền Sư Tuyên Hóa) hay

Một niệm ngu muội tức là Bát nhã tuyệt.

Một niệm trí huệ tức là Bát nhã sanh. (1)

Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn – Phẩm Bát Nhã Đệ Nhị

 

Ghi chú:

(1) Nguyên văn từ Kinh Pháp Bảo Đàn - Phẩm Bát Nhã http://dharmasite.net/KinhPhapBaoDanLuocGiang_Pham2_BatNha.htm :

Chư Thiện tri thức! Sao gọi là Bát nhã? Nhà Ðường gọi Bát nhã là trí huệ. Cả thảy các chỗ các nơi, trong cả thảy thời gian, niệm niệm chẳng ngu muội, thường tu hạnh trí huệ, tức là hạnh Bát nhã. Một niệm ngu muội tức là Bát nhã tuyệt. Một niệm trí huệ tức là Bát nhã sanh. Người thế gian mê muội, chẳng thấy Bát nhã. Miệng nói Bát nhã, mà trong lòng thường ngu muội. Thường tự nói ta tu hạnh Bát nhã, niệm niệm nói "không" mà chẳng biết Chân không. Bát nhã không hình tướng, ấy là trí huệ tâm. Thiệt có hiểu rõ như thế, mới chính là trí Bát nhã.

 

Hằng Thật - Tháng 8, 1977

Hòa luyện ánh sáng và gởi ánh sáng ra lại

 

Vài dòng viết cho thầy Hằng Triều sau chuyến thăm viếng của cư sĩ vào hôm chủ nhật.

Tôi có rất nhiều điều muốn nói, nhưng lại không thể nói lên lời. Không cần thiết như vậy. Điều đó thật sự truyền đạt tất cả. Đó là điều kỳ diệu của việc đó. Một cảm giác mùa thu Quán Thế Âm Bồ Tát thật sự. Cái ngã của tôi thật ngu ngốc! Hành trình này thật tuyệt vời.

Mọi vọng tưởng đều âm tính và u ám. Không nghĩ tưởng thì dương tính và tỏa sáng. Thanh tịnh tâm ý là trọng tâm đối với Phật nghiệp.

Xoay ánh sáng trở về (hồi quang) từ toàn bộ hệ thống năng lượng. Kéo ánh sáng trở về tâm điểm, kéo ánh sáng ra khỏi sáu căn, hòa luyện ánh sáng và gởi ánh sáng ra lại. Đốt cháy những tâm niệm chướng ngại ngăn che chân tâm. Bằng cách này thì trở nên chân thật. “Hãy dụng công tại đây”, Sư Phụ nói.

 

Hằng Triều. Ngày 19 tháng 8, 1977

Thành thật và trong sạch 

 

Trì tụng 48 Giới Bồ Tá trong lúc đang ngồi phía sau cuối của chiếc Pymouth ngay trước lúc hoàng hôn ở bên ngoài thành phố Carpentina. Bằng cách nào đó mà các giới luật này đã đưa tôi về tiếp xúc với sự thẳng thắn trở lại, chân thật và từ bi! Điều này giống như đang nói chuyện với Sư Phụ hoặc với cha mẹ tôi - thành thật và trong sạch. Giống như trong phần mở đầu Bồ tát Giới có nói:

“Cảm giác lành mạnh do những giới luật này mang lại giống như một người cuối cùng đã được trở về nhà sau một chuyến hành trình dài”.

 

 

Hằng Thật. Tháng 8, 1977

Con có gì để nói không?

 

Đừng đấu tranh với đứa trẻ đó. Hãy hàng phục nó.

Làm việc cật lực để hàng phục cái bản ngã của tôi, tôi nhìn vào bên trong. Tôi bắt gặp cảnh tượng của một đứa trẻ chín tuổi giữa sân khấu đang đóng kịch và trình diễn rất nhanh:

 

Hằng Thật: Vở kịch kết thúc rồi. Đến lúc phải ngưng diễn xuất.

Christopher (1): Tôi không thể ngừng diễn được! Đó là tất cả những gì tôi biết làm. Tôi khiến cho mọi người thích mình.

Hằng Thật: Em có thể dừng ngay lúc này. Đến lúc phải sống thực rồi. Khán giả đã về nhà. Ánh đèn sân khấu đã tắt. Sân khấu giờ đang mở vào một hội trường lớn cho chư Phật và Bồ Tát và những tu hành giả chân thực. Có thấy ánh sáng không? Không còn các hình bóng nữa. Còn với em, không đeo mặt nạ nữa. Đến lúc thể hiện chân tâm của mình.

Christopher: Arghhh!!! Ông không thể làm thế với tôi!! Nghe này, tôi có thể giúp ông làm bất cứ gì ông muốn. Tôi có thể giả mạo mọi thứ. Tôi có thể làm ông vui vẻ…

Hằng Thật: Em thật sự bị nhiễm ô và ghê tởm! Tôi nguyện độ em, cho dù trong quá khứ em có tồi tệ đến như thế nào, em sẽ trở nên thanh tịnh sớm. Mọi thói quen tập khí của em không thể chống cự ánh sáng thanh tịnh này lâu được đâu! Trước hết, em cần phải nhận ra mình ích kỷ như thế nào. Hãy ngừng trình diễn đi!

Christopher: Tôi ghét diễn! Nhưng tôi cũng rất sợ ngừng diễn. Nếu không có ai thích tôi thì sao? Tôi có thể sẽ chết!

Hằng Thật: Em sẽ học được niềm tin chân thật vào Phật Pháp khi em tu tập. Em càng ít đóng kịch thì chân tâm của em sẽ càng đập cùng nhịp với tâm Phật. Mọi người sẽ tự nhiên đáp ứng với em vì em thuần khiết. Hãy cố lên, ngay bây giờ, và hãy rời sân khấu. Hãy tịnh lại. Hãy lễ lạy chư Phật.

 

Bí mật lúc này đã thấy rõ. Gần đây tôi đã khóc rất nhiều, nước mắt làm ướt bụi trên đường. Những giọt nước mắt chảy ra vì hạnh phúc là tôi đã có cơ hội thay đổi cuộc đời mình và thật sự kết thúc nghiệp xấu của mình. Những giọt nước mắt chảy ra vì sự hổ thẹn là tôi đã quá ô uế và không xứng đáng với sự ân cần và lòng từ bi của chư Phật, Bồ Tát, và Hòa Thượng.

Tại chùa Kim Luân chiều chủ nhật, tôi nghe Sư Phụ giảng về Trung Đạo của đức Phật và chân lý tuyệt vời của Phật Pháp và điều này đã đi thẳng vào tim tôi giống như sét đánh. Một lúc sau, Hòa Thượng quay lại phía tôi và hỏi, “Quả Chân, con có gì để nói không?” Tôi phải cố gắng rất khó khăn để thoát ra khỏi cái đầu để vào trái tim của tôi, hồ nước nào đó bên trong làm tôi gần như nghẹt thở khi tôi nói những lời trong thâm tâm mình với bạn đạo tại chùa Kim Luân. Tôi không biết tôi đã nói và cảm thấy vừa tốt đẹp vừa không tốt sau khi nói xong – tốt là vì điều đó là chân thật, khó khăn và đáng sợ; không tốt là vì tôi đã không làm triệt để điều đó. Tôi đã đè nén quá sớm và đã không hoàn toàn trong sạch. Điều tôi cảm thấy là sự tràn ngập thiện lành, năng lực và quang minh của Sư Phụ. Năng lực của Ngài là năng lực của đức hạnh và dù không làm gì cả nhưng lại đang chuyển được tâm trí và thói quen xấu của mọi người. Pháp của Chư Phật là điều tốt nhất trên thế gian. Tôi bắt đầu tin rằng tôi có thể trở lại thanh tịnh và hữu ích cho chúng sanh. Điều này khiến tôi rất khiêm nhường và hạnh phúc. Cùng lúc đó, tôi có cảm giác hổ thẹn sâu xa rằng tôi đã quá chậm chạp với việc sửa đổi. Tôi quá ích kỷ và nhỏ nhen. Hòa Thượng đã dùng năng lượng cực lớn để dạy dỗ và chuyển hóa đệ tử của mình, tuy thế tôi để đáp lại, tôi lại đưa cho Ngài rắc rối và kiêu mạn, ngu ngốc và ích kỷ.

Cách của Hòa Thượng là vô ngã – Ngài không tham, không sân hận hay hồ đồ. Đức hạnh của Ngài mạnh mẽ hơn bóng tối. Ánh sáng của Ngài tràn ngập khắp nơi, thậm chí thâm nhập đến cả những hang động tối tăm trong trái tim cộc cằn của tôi. Thật tuyệt vời, đôi khi, không thể chịu nổi. Vì thế nước mắt tuôn tráo. Tôi muốn được tái sinh, được Pháp chuyển hóa. Hãy để cho mưa Pháp tưới khắp nơi nơi trong suốt ba ngàn tam thiên đại thiên thế giới.

 

Ghi chú:

(1) Chritopher là tên thế tục của Thầy Hằng Thật.

 

Hng Tht - Ngày 20 tháng 8, 1977

Ông vn còn s dng thế gian

 

Hãy ngừng sử dụng thế gian…

Và nếu như ngươi không làm được điều đó lần này, nếu ngươi cứ mơ mộng suốt 700 dặm đường dọc theo bờ biển, nếu ngươi đùa giỡn rồi bị thất bại vì không thể hoàn toàn gom trở lại – tinh tấn và từ, bi, hỷ, xả – thì không còn gì để nói ngoài câu “Thôi, ông ấy quá tệ, Quả Chân đó chắc chắn có nhiều dục vọng năng nề”.

Giờ thì ông đang ở đây, ở ngoài đường, đang trên đường đi, tất cả điều ông cần phải làm ngay trong từng giây phút trong ngày là nỗ lực thêm một chút, cố gắng chăm chỉ thêm chút nữa, chậm lại và làm cho đúng, loại bỏ tiếng ồn một cách dứt khoát hơn một chút, hãy làm thật sự và ông sẽ đóng lại quyển sách về tất cả những sự mộng mị mê mờ trong quá khứ thì ông có thể bắt đầu viết lên một quyển sách mới thuần khiết thanh tịnh và lúc đó thế gian có thể sử dụng ông. Trước lúc đó thì ông vẫn còn sử dụng thế gian, mặc dù những lời lẽ kính cẩn của ông thì ngược lại.
 

 

 

Hằng Triều. Ngày 20 tháng 8, 1977

Quý Thầy đang đi vào ngõ cụt

 

Quang cảnh buổi sớm mai trên góc đường bên ngoài khách sạn nhỏ Eugenia ở khu trung tâm thương mại của thành phố Carpentina:

Chiếc xe tắc xi dài hiệu Checker cũ kỹ chở ba người, một phụ nữ lớn tuổi trong chiếc áo rách rưới in nhân vật truyện Heidi và đôi ủng cao bồi, mái tóc trắng rối bù, khoảng chừng 70 tuổi. Sánh đôi là một ông lão ăn mặc cũng khác thường như vậy với bộ râu trắng và một thanh niên trong đôi giày tàn tạ và chiếc quần ka ki ngắn. Luộm thuộm và có chút đãng trí, người thanh niên mời trà hương thảo mộc nóng, “để tôi xem, cái ly, tìm một cái ly ở đâu đó”. Hai người lớn tuổi hơn đi lòng vòng thơ thẩn nhìn xem gì đó – họ đâu xe chắn lối dành cho xe ra vào khách sạn nhỏ – một nửa xe trên lề đường. Người đàn ông thì đang mở vòi nước để rửa mấy cái ly.

Trong khi điều này đang diễn ra (Thầy Hằng Thật và tôi đang đứng đó, cố kiểm soát mọi việc và đang bị phỏng miệng vì ly trà đang còn quá nóng) – thì có hai người “Thiên Chúa Giáo” rao giảng Thánh Kinh lái chiếc Porsche đến, họ bước ra, tay cầm mấy quyển Kinh thánh to màu đen ngang bên hông. Họ bắt đầu cố chuyển đạo chúng tôi và không dễ thuyết phục họ là chúng tôi không muốn đổi đạo. “Các ông muốn mọi người lắng nghe khi các ông nói, phải không?” một người hỏi. “Bất kỳ điều gì họ muốn. Nếu mọi người muốn gì thì họ cứ tự do làm điều họ muốn; nếu họ không muốn thì họ cũng tự do làm như thế. Không thành vấn đề. Thế nào cũng được”

Người phụ nữ lớn tuổi mời mọi người quanh đó mấy cái viên kẹo sâm dẻo, giống như là một bữa tiệc sinh nhật nhỏ vậy. Mọi người đều đón nhận. Chúng tôi lịch sự từ giã để quay trở lại và lễ lạy. Mấy người Thiên Chúa giáo ở lại nói chuyện về tôn giáo với những người trên chiếc xe tắc xi dài trong khi uống trà và kẹo sâm, họ vẫn còn chắn đường lái xe ra vào khách sạn nhỏ. Người đàn ông già đang tưới mấy cây bông của khách sạn nhỏ; mọi người trong khách sạn cứ ngẩn người nhìn ra trong dáng vẻ còn ngái ngủ.

 

Chuyển mọi cảnh giới, tâm bừng sáng.

Bên ngoài chết bên trong rực sáng,

Không động mà tự tại bay khắp

Bị cảnh chuyển, mây bụi trùm khắp.

Bên ngoài lấp lánh, u ám bên trong,

Chạy điên cuồng, chẳng đến đâu.

Đi điên cuồng, chẳng về đâu.

Một ngày nữa đã hết.

 

Cảnh sát kiểm tra. Được thông qua nhờ chữ ký của vị chỉ huy trên thư của chúng tôi. Những câu mà tôi hỏi mình với tư cách là một người Hộ Pháp: Cách bảo vệ Pháp là tu hành cho đến khi Pháp trở nên sống động trong từng ý nghĩ, từng hành động và lời nói của mình. Nếu ông thật sự có thể làm vậy, thì ai lại không muốn tìm Đạo? Nếu ông không làm được như vậy thì ai sẽ tìm Đạo? Một ngôi chùa vĩ đại được trang hoàng để làm gì nếu như không ai biết cách sử dụng nó? Thân và tâm của ông dùng để làm gì nếu như ông thất bại trong việc thực hành Đạo bằng chân tâm? Cuộc đời của ông dùng để làm gì nếu không cố gắng hết mình để khai ngộ? Nếu ông không đạt được Đạo thì làm thế nào mà ông có thể hy vọng thật sự trả ơn cha mẹ và thầy cô?

 

Hai vị Hộ Pháp trẻ theo dõi chúng tôi vài ngày vừa qua hét lên, “Đó là ngõ cụt”

“Hả?”

“Quý Thầy đang đi vào ngõ cụt”

Tôi tưởng họ ám chỉ việc lễ lạy của chúng tôi, nhưng họ ý nói về con đường.

Họ nhanh chóng đưa dẫn chúng tôi tới một con đường phụ ở phía bên kia xa lộ.

“Công việc cho đến bây giờ đều tốt đẹp phải không?” một người hỏi.

“Đúng rồi. Rất thú vị. Mỗi ngày một khác”.

“Có gì đe dọa các thầy không?” người kia hỏi.

“Chẳng biết trước được”

Một người phụ nữ trẻ đi trên chiếc xe gắn máy, trên lưng đeo một cái túi, dừng lại cúng dường và chúc cho chúng tôi tốt đẹp. Cô ấy đang vui sướng đi tới tham dự một khóa thiền ở Los Angeles. “Tôi rất vui mừng khi tình cờ gặp được các thầy, đặc biệt là lúc này”.

Sau đó, có mấy người khác dừng lại với một số trái cây. Họ là con của một người phụ nữ già mà người phụ nữ đi xe gắn máy vừa rồi là y tá của bà ấy. Cô y tá ấy đã gọi điện thoại và báo cho họ biết.

Cắm trại ẩn trong một cánh đồng trống cây cỏ mọc đầy bên cạnh một khách sạn nhỏ dành cho các tài xế xe tải và cạnh vài ngôi nhà. Thầy Hằng Thật đang trong tình trạng rất mệt mỏi do bị bệnh làm mất nhiều năng lượng.

 

 

Hằng Thật. Ngày 21 tháng 8, 1977

Luật cấm tu hành

 

Hãy để tâm trí quý vị được nghỉ ngơi.

Ở gần một thầy trí tuệ, một người bạn tâm linh thiện lành, tự nhiên lúc nào mình cũng nhận biết được về trung tâm khí lựccủa mình,xoay ánh sáng trở lại” hướng tất cả sự tập trung của mình vào trung tâm khí lực đó.

Xa rời một bậc thiện tri thức thì khó giữ cho khí lực ở lại bên trong. Điều này đòi hỏi phải dụng công nhiều hơn, có nhiếu chú tâm hơn để an trú ở nơi trung tâm khí lực. Khuynh hướng tự nhiên là làm phân tán khí lực, là chuyển dịch lên và hướng ra ngoài, luẩn quẩn và không xuyên thủng được các “cảnh giới” để đến đến cái cốt lõi vốn không bên trong tất cả vạn vật.

Tuần trước tại chùa Kim Luân, tôi đã nhận biết về mỗi cử chỉ của Sư Phụ - tôi có thể cảm nhận sự hiện diện của Sư Phụ trong vùng khí lực của tôi – giống như màn hình chiếc ra đa. Tôi biết điều này mà không cần phải suy nghĩ là Sư Phụ đang ở đằng sau, phía trước, phía bắc, hay phía nam của tôi – trong khi chúng tôi ở trong chùa. Trong sự hiện diện của Ngài, tôi ít khởi vọng tưởng hơn – hầu như là ánh sáng của Ngài đã đẩy vọng tưởng ra khỏi đầu tôi, như bóng tối biến mất trước ngọn đèn. Mỗi lần một ý nghĩ khởi lên, tôi có thể đưa ý nghĩ đó trở lại vùng trung tâm khí lực và chế ngự nó một cách dễ dàng. Tôi nghĩ, “Đây là cách duy trì chánh niệm và đối phó với các vọng tưởng, và cũng để kết nối với trung tâm khí lực của mình!”

Ở ngoài riêng một mình thì khó khăn hơn để giữ mình an trú ở trung tâm. Câu trả lời là gì? Sử dụng khí lực để đưa mọi hoạt động tinh thần xuống vùng trung tâm.

Mọi ý nghĩ ham muốn, tham lam, sợ hãi, mơ tưởng – đừng phản ứng lại nó – chỉ hướng cho nó chạy xuống và để nó vào đó. Xoay ánh sáng trở lại và chiếu vào bên trong (hồi quang phản chiếu). Hãy để cho tâm trí bận rộn của quý vị được nghỉ ngơi.

 

Chỉ các lậu thoát là ngoài vòng pháp luật.

Giả sử rằng trên thế gian có luật ngăn cấm tu hành. Tôi chắc hẳn sẽ là một người tu hành lậu thoát. Mọi người ở tu viện Kim Sơn sẽ là những tội phạm tuyên thệ trung thành. Điều đó sẽ như thế nào?

Quý vị sẽ không được phép chú tâm vào Tam Bảo. Quý vị chỉ được phép trì niệm với một nửa tâm trí của mình thôi. Quý vị phải không thành tâm trong việc sám hối, phải bí mật che đậy những lỗi lầm sâu kín nhất của mình, phải cố ý lặp đi lặp lại cùng lỗi lầm. Đó là luật.

Sự thay đổi thật sự sâu thẳm trong tâm của quý vị bị ngăn cấm. Quý vị phải tiếp tục gian dối, phải bảo vệ những tâm niệm về các pháp nhiễm ô của mình như thể chúng là những viên ngọc quý hiếm. Quý vị không được phép tìm kiếm sự giác ngộ, thay vào đó, quý vị phải đưa tâm trí mình đi lang thang về những điều trần tục. Quý vị phải để ý đến mọi chiếc xe khi nó chạy qua, sẽ đọc mọi bảng quảng cáo trên các tòa nhà và trên mọi chiếc xe tải. Quý vị sẽ mơ tưởng kết bạn với tất cả đàn ông phụ nữ mà quý vị gặp.

Khi tiếng còi xe kêu lên thì quý vị phải nguyền rủa người lái xe, khi côn trùng cắn thì phải đập chúng và xua đuổi chúng đi. Mỗi một chiếc xe chạy qua cần phải khuấy động những ý nghĩ về những sự cúng dường tốt đẹp sẽ đến với mình. Đó là luật.

Điều quan trọng nhất là quý vị cần phải nắm bắt mọi cơ hội để đi lang thang ra khỏi vùng trung tâm của mình – thực hành việc tuân thủ luật này bằng cách hướng sự tập trung của quý vị vào những móng tay, quần áo của mình, vào thời tiết, những hạt chuỗi, bữa ăn trưa, bữa ăn trưa của ngày hôm qua, cuộc viếng thăm của cư sĩ vào ngày mai, những ký ức, giấc mơ, và những sự chỉ trích.

Lúc nào cũng làm như vậy và không bao giờ để sự tập trung của mình vào vùng trung tâm. Điều này không được cho phép.

Nếu tu hành là vi phạm pháp luật, bản tính nổi loạn “yêu tự do” của tôi sẽ tu hành với ý chí thật sự, chỉ để muốn chứng minh rằng tâm trí không thể bị kiểm soát bởi luật lệ và những quy định.

Do tu hành thì không vi phạm pháp luật, trở ngại duy nhất để đạt được thành quả ngay ở đây là những thói quen xấu cũ, bám chấp, lười biếng và những vọng kiến. Ông đang tu hành phải không? Ông bị bắt!

 

Luôn luôn ở trước đức Phật.

Bí quyết để lễ lạy tốt đẹp là luôn nhớ đến cách quý vị hành xử như thế nào khi có thầy của quý vị ở bên cạnh. Quán niệm đức Phật, Pháp và Tăng, giống như họ đang ở ngay trước quý vị với tất cả vẻ uy nghi, giống như họ có ở đây trong thế giới Ta Bà này trên trái địa cầu nhỏ bé đầy đất và nước của chúng ta, tùy thuộc vào quý vị đã tu hành thành tâm như thế nào.

Ở trước vị Thầy của mình, quý vị sẽ không muốn có những ý nghĩ dù là nhỏ nhất. Quý vị muốn thể hiện thân, khẩu, ý trong sạch nhất, thanh tịnh nhất mà quý vị có thể làm được. Quý vị muốn cố gắng hết sức. Điều đó không có nghĩa là khi xa vị Thầy của quý vị thì quý vị sẽ làm ít hơn so với nỗ lực tốt nhất của mình, nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng trong vùng ánh sáng của vị Thầy của chúng ta thì có một sự hiển hiện rất đặc biệt mà nó truyền cảm hứng cho chúng ta để được nỗ lực hết mình.

Tuyệt vời làm sao khi lúc nào cũng nhìn thấy chư Phật và Bồ Tát! Người tu hành tu tập đạt được địa thứ nhất của Bồ Tát đạo là Hoan Hỷ Địa thì không bao giờ rời xa chư Phật hay rời bỏ mọi hạnh tu của Bồ Tát và nhờ đó người ấy lúc nào cũng hạnh phúc. Thật hoan hỷ!

Đối với những người trong chúng ta chưa đạt tới Đệ Nhất Địa này, chúng ta phải nỗ lực hết mình để luôn nghĩ tưởng đến các bậc Đại Thánh như thể các Ngài lúc nào cũng đang hiện hình ở trước chúng ta – trên đường đi, trong xe, ở nơi học hành, tại chỗ làm, trong Phật điện, các Ngài chẳng bao giờ ở đâu xa xôi; Tam Bảo luôn luôn thường trụ. Tại sao? Bởi vì khi chân thật, thì Tam Bảo đến từ chính quý vị, từ bên trong tâm trí của quý vị.

 

Hằng Triều - Ngày 21 tháng 8, 1977

Bữa ăn trưa và các vật dụng

 

Kuo Kuei và một đứa cháu gái, Kuo Nang and Kuo Chen mang thức ăn trưa tới và các vật dụng. Helen và Wesley Woo cúng dường áo khoác và hộp sơ cấp cứu (first-aid kit), phích đựng nước và ruột viết. Quả Nang cúng dường 20USD và chùa Kim Luân gởi tới một cái mền.

 

Hằng Thật. Ngày 22 tháng 8, 1977

Tôi sẽ ngồi cả ngày để đọc quyển sách đó

 

Để giác ngộ, cần phải chết. Đó là nói cái bản ngã – là chính quý vị, thứ đã khiến cho quý vị tách rời khỏi những chúng sanh khác, phải bị “nhổ sạch” thông qua tu hành tinh tấn lâu dài.

 

Thanh Tịnh Tự nhiên.

Tại sao một người trở thành một vị sư sống theo một lối sống mà bạn bè của người ấy cho là thiếu tự nhiên ? Tại sao vị sư này lại bám chặt vào thanh tịnh vô dục và dứt bỏ những lề lối sống xưa cũ xem là nhiễm ô và không thanh sạch? Vị ấy bị bệnh thần kinh, bị bệnh chăng? Không, người ấy rất cân bằng, mạnh khỏe và hạnh phúc hơn trước đây. Vị ấy là người chống lại xã hội, hay là một kẻ phá hoại gia đình chăng? Hoàn toàn không có chút nào như vậy, người ấy trân trọng hạnh phúc của mọi gia đình như là điều cơ bản của một đất nước thanh bình. Người ấy đã từng tìm kiếm những cảm giác cao cả, những sự rung động tâm linh , những thói quen đó đi về đâu? Người ấy chỉ chán ngán với việc hời hợt làm những điều đó, và quyết định đi làm điều gì đó thường hằng.

Vậy thì tại sao vị ấy lại sống vô dục? Bởi vì người ấy từng biết nhiễm ô và thấy nó thật chua chát và cay đắng. Người ấy đã được nếm mùi vị thanh tịnh và thấy rằng hương vị của nó thật tuyệt. Nó không hư mục và không gây hại.

Vậy làm thế nào mà điều đó liên hệ đến những đỉnh thăng hoa của tâm linh? Việc đó đòi hỏi thời gian và nỗ lực để tẩy sạch được những bóng đen của những thói quen xấu trong quá khứ, nhưng khi thanh tịnh là hoàn toàn, khi mà ngay cả những ý nghĩ cũng đều không có nhiễm ô, thì lúc đó sẽ có điều tốt đẹp xảy ra, và sự sống chuyển đổi thành ánh sáng. Không phải điều đó nghe có vẻ rất tốt cho quý vị sao? Quý vị không thích ánh sáng và trí huệ hơn là bóng tối và vô minh sao?

 

Hãy Làm Cho Những Bờ Vực Giới Hạn Của Cuộc Đời Biến Mất Và Nối Kết Lại.

Tu hành đạo Phật đưa những bờ vực giới hạn trở lại an bình. Con người hiện đại thì nhận tất cả những bờ vực giới hạn trong đời vốn để làm cho cuộc sống thú vị và đáng sống, thì tìm phương cách lèo lái những bờ vực giới hạn ra xa trong một thời gian ngắn. Những tiện nghi hiện đại, những máy móc giúp tiết kiệm thời gian và sức lao động là những lớp vỏ mỏng manh phủ lên trên thực tế của những bờ vực giới hạn trong cuộc đời.

Những bờ vực giới hạn đó là gì? Chúng ta có những cái tên cho chúng, đó là: không tiện nghi, đau khổ, sợ hãi, kích động và cảm giác đang sống. Những bờ vực giới hạn là nơi sự thay đổi diễn ra. Những bờ vực giới hạn là nơi sự tăng trưởng xảy ra. Những bờ vực giới hạn là nơi chúng ta xem xét lại cuộc đời của mình, phản chiếu lại chính mình và tìm lại chính mình, và cuối cùng cắt bỏ đi những “cái bản ngã” của chúng ta. 

Làm thế nào mà tu hành đạo Phật lại đưa chúng ta trở lại với những bờ vực giới hạn và cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa của cuộc đời? Đây là một vài bờ vực giới hạn: cái đói mài trí cho sắc bén, trì chú để cho tâm trí sâu sắc, áp lực đè lên chân và lưng trong lúc thiền điều chỉnh toàn bộ hệ thống và đưa cuộc sống vào trong một tâm điểm rõ ràng, lằn ranh trắng phân chia trên xa lộ cho chúng ta một bờ vực giới hạn của sự an toàn, tập thể dục cho thấy giới hạn linh hoạt của cơ thể, tức giận và phương pháp kềm chế nóng giận tạo ra một chiến tuyến rõ ràng, từ bỏ một vài mục tiêu hoặc thói quen tạo ra sự nhận thức về các giới hạn, “Xoay ánh sáng trở lại” (hồi quang phản chiếu) và nhận biết khuynh hướng tìm kiếm những mục tiêu hay người bên ngoài để đổ lỗi là một bờ vực giới hạn có thật giống như chân trời lúc rạng đông.

Tất cả những điều này là những bờ vực giới hạn thật đem lại cảm giác có chỗ nương vào. Một khi chúng ta tìm thấy bờ vực giới hạn, tìm được điểm bờ vực chuyển đổi, chúng ta có thể dụng công bằng một pháp môn để xóa đi bờ vực giới hạn hoặc để vươn ra ra và mở rộng khà năng của mình. Khi những bờ vực giới hạn của bất cứ phần nào trong cuộc sống được xuyên vượt qua, một cánh cửa sẽ mở ra để đi vào chân lý của sự trống rỗng tại rung tâm của mọi sự hiện hữu.

Khi chúng ta sử dụng tất cả thời gian, nỗ lực và mọi nguồn lực để che dấu đi những bờ vực giới hạn, chúng ta sẽ chết đi một chút phần đó. Làm êm ái cho cho những phần khó khăn của cuộc đời chỉ có thể kéo dài thêm một thời gian ngắn và những ảo ảnh của sự tiện nghi, thoải mái, là chỉ được tốt nhất là một sự dối trá và xấu nhất là một bước đi vào nấm mồ. 

Bờ vực giới hạn tột cùng không phải là sự sinh hay tử của quý vị, sinh và tử chỉ là mốc dấu sự chuyển đổi của việc thay đổi nơi chốn trên bánh xe luân hồi. Bờ vực giới hạn tột cùng là ranh giới giữa phàm phu và bậc thánh nhân. Một khi phiền não chuyển thành Bồ đề thì sự thay đổi sẽ là mãi mãi thường còn. Một khi tâm ngừng vẽ lên những ranh giới giữa các pháp và phân chia cuộc sống trong khi chẳng có hiện hữu những sự phân chia nào cả, thì rồi tất cả cuộc sống sẽ trở nên viên mãn tròn trịa và tất cả các bờ vực giới hạn đều biến mất.

Các tính từ (hình dung từ) thường được nghe thấy nhiều nhất trong kinh Hoa Nghiêm là “vô tận”, “vô lượng” và “vô biên”. Những tính từ này mô tả bản chất của Pháp giới, vũ trụ của các vũ trụ và bởi vì tất cả đều do tâm tạo, điều đó miêu tả bản chất của tâm: vô tận và không bờ vực giới hạn, một khối cầu viên mãn hoàn hảo.

Có những thời gian tuyệt vời khi còn là đứa trẻ, khi ấy chúng ta có thể ngồi với nhau bên đám lửa trại hay trên đỉnh núi và nói chuyện về sự vô tận. Những lúc đó là khi tâm trí thật sự thả lỏng, cố gắng hiểu thấu từng hơi thở và chiều sâu của vạn vật. Sẽ rất hữu ích nếu có một người bạn tốt đi cùng, có thể là một người chú, người ông, hay cũng có thể là một người thân uyên bác; một người tâm hòa nhịp cùng những con đường như quý vị.

Những lúc như thế cần có sự hiện diện của một trong tứ đại gần gũi – đất, khí, lửa, nước. Vùng bờ biển, một cơn mưa, một cơn bão lốc, buổi hoàng hôn sẽ hữu ích; cần có một thể hiện to lớn căn bản của thiên nhiên mà quý vị quan sát trực tiếp – càng ít màng lọc ngăn cách giữa thiên nhiên và quý vị thì càng tốt. Rồi câu chuyện quay qua chuyện vô tận.

Dù cố gắng hết sức thì quy mô của vũ trụ này luôn luôn đánh bại tâm trí của quý vị. Có một bờ vực giới hạn mà nơi đó quý vị không thể nào đưa những chân lý tự nhiên vào vừa trong đó được tâm trí của quý vị cần phải tách mở ra để chứa tất cả trong đó. Cảm giác thật tuyệt khi cái ‘tôi quan trọng’ của quý vị bị đè bẹp phẳng ra để nhận thức ra trái đất, thành phố và cuộc đời của quý vị nhỏ bé đến nhường nào. Nó giải thoát sự nhức nhối và áp lực ra khỏi những vấn đề lớn nhất mà quý vị phải đối mặt – nó thu nhỏ lại xuống không còn gì cả khi quý vị quán sát về những ngôi sao, hay số giọt nước biển trong đại dương hay những ngọn cỏ trên toàn tiểu bang Ohio hay tất cả những suy nghĩ mà quý vị đã từng nghĩ đến, hoặc là suy nghĩ xem Chúa hoặc Phật thật sự trông như thế nào. 

Nếu có ai đó đã biết rõ nói cho tôi biết rằng toàn bộ vũ trụ từ gốc rễ cho đến thân ngọn, tới cành, lá rồi trở lại gốc rễ, tất cả đều ở trong một cuốn sách gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh thì tôi sẽ dành dụm từng xu, các nắp chai và gởi đi hết các tấm phiếu tiết kiệm giảm giá (coupons) và bồn chồn chờ đợi người đưa thư đến mang đến nhà tôi cuốn sách ấy. Tôi sẽ ngồi cả ngày trên chiếc ghế bên cửa sổ và đọc cuốn sách đó.

Đó là tất cả những cái “nếu như, nếu như”. Tại sao? Bởi vì trước lúc một nhóm người tìm kiếm về vô tận và đạo lý chân thật ở thành phố San Francisco bắt đầu cùng nhau làm việc để dịch quyển sách này thì chưa có bản bản dịch nào của quyển này hiện hữu này ngoài bản tiếng Trung Hoa cả. Rất ít người đã đọc sách này hoặc thậm chí biết tên của sách này Dần dần từng chút một, Kinh Hoa Nghiêm đang đến tay người Tây Phương và lúc này khi những ngôi sao nhô ra vào buổi tối tháng 10 khô lạnh, và tiếng chuông cửa reng lên đưa những người bạn ngồi lại với nhau nói chuyện về sự vô tận và kích thước cùng hình dáng của mọi vật thật sự như thế nào, thì quý vị sắp có chiếc chìa khóa thật để mở vào bàn vẽ thiết kế của vũ trụ, một lối đi băng qua các dải thiên hà; một tấm gương thần kỳ tiết lộ cho biết có bao nhiêu thiên thần bên trong một hạt bụi nhỏ và họ làm gì trong đó! Và quý vị có thể chỉ cần đi cùng cho tới khi tâm của quý thốt lên “Chịu thua rồi”. Điều đó không tuyệt vời sao?

Và khi tâm trí của quý vị đầu hàng và mọi rắc rối dường như biến mất cùng với cái bản ngã của quý vị, quyển sách này sẽ nói cho quý vị biết các bước kế tiếp cần đi để quý vị có thể bước đi vào ngay bên trong hạt bụi đó và thấy quý vị đang ở trong nhà mình.

 

Làm Việc Nhằm Phục Vụ Cội Gốc 

Sự hoàn hảo của việc bố thí (bố thí ba la mật) sẽ đạt được khi quý vị hoàn toàn quên đi bản thân mình cho đến khi không còn lại chút gì là bản ngã của mình nữa. Người xuất gia có gì để bố thí? Người ấy có thể bố thí sự phục vụ tất cả chúng sanh và bố thí thân mình như là sự cúng dường cho những người khác khi họ cần đến. Việc lạy này không hoàn toàn làm vì chúng tôi – có lợi ích trong việc vận động cơ thể rất nhiều lần trong cùng một thể thức – điều này tốt cho trí huệ và sức khỏe; nhưng động cơ ẩn đằng sau đó không phải là động cơ ích kỷ. Nếu chúng tôi ra ngoài này để làm vì lợi ích cho chính mình thì có những cách khác nhanh hơn, ít rắc rối và thoải mái hơn. Việc l lạy là công việc thay mặt cho tất cả mọi người và mọi vật. Đó là cách của chúng tôi có thể làm gì đó tốt hơn cho tất cả mọi người.

Việc lễ lạy là việc tốt đẹp thuần túy, nó không có động cơ khác. Chúng ta đều biết về điều xấu ác và rất nhiều điều mà chúng ta thấy đang tăng trưởng trên thế giới bắt nguồn từ bóng tối. Việc lễ lạy vẽ ra ranh giới với bóng tối và nói rằng, chúng tôi không quan tâm đến bề mặt của mọi vấn đề, không màng đến chúng tôi trông như thế nào hay cảm thấy như thế nào, hay có được bao nhiêu tiền hay bao nhiêu thú vị từ những việc mình làm. Chúng tôi chỉ quan tâm đến nguồn gốc, cội rễ của chính cuộc sống. Chúng tôi muốn đi xuống tận phần dưới thân cây, tới nơi mà điều thiện và ác chưa hiển lộ, chưa hình thành và chúng tôi muốn đưa năng lượng, công sức và ánh sáng vào bên trong bản vẽ nguyên thủy đó để khi những cái rễ của cuộc sống sanh ra cành nhánh, thì cành nhánh đó sẽ lớn mạnh, và hướng tới điều tốt đẹp. Đó là cách bố thí của chúng tôi và đó là những gì chúng tôi muốn làm: phục vụ cho những cội rễ tốt.

Thiền định là việc gặp một cảnh giới, tập trung vào nó một cách thanh tịnh, và tùy duyên đối phó với cảnh giới, và đồng thời trong mọi lúc không bao giờ mất dấu mọi việc đang diễn ra xung quanh và ở bên trong. Chăm chú bao quát, với sự tập trung linh hoạt uyển chuyển. Đó không phải là thủ thuật mà là sự nỗ lực dụng công!

 

Hội Thoại Với Mấy Người Bạn Cũ, Những Người Theo Đường Bên Ngoài.

Jane: Chúng ta đều có những vị thầy tâm linh, chúng ta đều đang tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc đời nhưng tại sao con đường của thầy lại quá nhọc nhằn thế?

Sư: Thói quen cũ của tôi rất mạnh. Thay đổi thật khó khăn.

Jane: Những thói quen cũ ấy có gì là sai trái sao? Tôi không nghĩ thầy là người xấu. Tại sao thầy lại cảm thấy mình cần phải thay đổi?

Sư: Cơ bản là tất cả chúng ta đều lcó tiềm năng là những vị Phật nhưng chúng ta không nhận ra điều đó cho đến khi chúng ta nỗ lực tu hành trong một thời gian dài. Nếu trở thành Phật là dễ dàng thì có lẽ sẽ có rất nhiều vị Phật ở quanh đây. Mức độ về tham lam, giận dữ, ngu si của tôi vẫn còn rất mạnh và chúng đang kiểm soát cuộc đời của tôi cho tới khi tôi có được một số thói quen thanh tịnh theo những giới luật của Phật về một lối sống đúng đắn. Cho tới khi điều đó là chân thật và không phải chỉ là một bộ quần áo hay một trò chơi mà tôi ưa thích chơi trong tuần, trong thời gian nghỉ những ngày cuối tuần và trong những ngày nghỉ lễ; cho tới khi tôi làm theo những qui củ và giữ giới luật tốt, nếu không thì tôi chỉ là một người đóng kịch đang sống một cuộc sống “tinh thần” theo cách một thương nhân làm kinh doanh – ra ngoài để làm lợi cho mình miễn là điều đó không làm tổn thương quá nhiều.

Jane: Tôi có thể thấy thầy đang tận sức cho cuộc hành trình này. Hãy nói tôi biết, tôi đã từng biết khá nhiều về con người cũ của thầy và giờ tôi hiểu rằng thầy hiện đã là người độc thân đoạn dục tu khổ hạnh kể từ khi thầy chuyển vào sống trong tu viện. Điều đó có thể là sự thật không? 

Sư: Hoàn toàn như vậy.

Jane: À, nhưng tại sao? Phải chăng điều đó không tự nhiên, đặc biệt là với thầy, một con người rất ưa thích thiên nhiên, đời sống lành mạnh và tất cả những điều như thế?

Sư: Tôi đã nếm thử sự nhiễm ô nhưng tôi đã chưa bao giờ thử nếm mùi thanh tịnh. Trong khi tôi còn ở trong giữa những ngày tháng hoang dại của mình, tôi luôn luôn biết có một điều gì đó rất sai trái và bất toàn trong sự hiểu biết của mình về những việc đang làm. Đôi khi, tôi cảm thấy hết sức kinh khủng. Nhưng mọi người đều đang làm như vậy, nó thật dễ dãi, âm tính và tối tăm – nên tôi đã có thể đủ dễ dàng để làm im tiếng lời nói đó của lương tâm mình. Và mùi vị chua chát, cay đắng từ việc ép buộc gần gũi với những người mà tôi đã không cùng chia sẻ một lời nguyện nào hay sự gắn bó nào thì thế nào?

Hãy nhớ lại xem cảm giác về điều sai trái ấy như thế nào? Cái đó gọi là nhiễm ô và cảm thấy đó là lầm lỗi vì trí huệ ở bên trong nhận ra đó là con đường đi đến cái chết – cũng chắc chắn như việc bạn sẽ tái sinh. Trừ khi bạn kết hôn và muốn xây dựng gia đình, bạn nên giữ lại năng lượng bên trong mình. Thật là sai lầm khi cứ vung rãi loanh quanh cẩu thả, bất cẩn. Vì thế mà tôi đã học được. Vì thế tôi đã thực hành.

Jane: Điều này nghe có vẻ đức hạnh, thuyết giáo và cũng thật dễ sợ. Thầy nói gì? Tình dục là chết chóc à?

Sư: Cái gì tự nhiên hơn cái chết? Chỉ sống cho hết dần những tháng năm của bạn rồi chắc chắn bạn cũng sẽ chết. Dụng công cho việc tu hành theo con đường của bậc Hiền thánh, điều đó luôn có nghĩa là sống đoạn dục, trong mọi thời đại lịch sử, bao gồm cả thời đại của chúng ta, thì bạn có thể sẽ tìm ra được cách để tránh khỏi cái chết và tránh cả núi đau khổ. Bên cạnh đó, nếu bạn không lập gia đình, thì bạn sẽ mất mát gì bằng cách cắt bỏ những trò vui nhộn và những cảm xúc xao xuyến rẻ tiền? Bạn không thấy mệt mỏi với việc tìm kiếm cảm xúc cao xa mà chẳng bao giờ đến được hay sao? 

Jane: Ồ! khoan đã, xin chậm lại một chút …

 

 

Hằng Triều. Ngày 22 tháng 8, 1977

Chẳng có gì giới hạn

 

Sau bữa trưa, khi chúng tôi lạy chầm chậm xuyên qua ánh nắng chiều mù sương khói trên con đường ở Carpentina, tôi hỏi chính mình, “Ai đang ở trong thế gian đầy khói, nóng bỏng mắt này đây?” Tập trung lạy để loại trừ những suy nghĩ khác, tôi ở trong một thế giới khác. Vào buổi trưa vẫn là một thế giới khác. Khi chúng tôi đọc kinh quanh chiếc đèn dầu nhỏ tối nay, một thế giới hay nhiều thế giới nào mà chúng tôi sẽ vào đến và rời đi, sẽ trú ngụ trong đó và sẽ du hành tới? Những thế giới bên trong thế giới, “Các thế giới nhiều như những hạt bụi ở Phật địa” (Kinh Hoa Nghiêm). Quý vị đang có những suy nghĩ gì? Quý vị đang ở trong thế giới nào? Có bao nhiêu thế giới khác nhau mà quý vị có thể đồng thời ở trong đó? Trong từng suy nghĩ, chúng ta chuyển dịch dời chỗ và đổi tới các thế giới. Chuyển tâm trí mình một chút theo cách này hay cách khác, về phía ánh sáng hay về phía hỗn loạn, thì mọi thứ chuyển dịch và tái sắp xếp, và được nhìn thấy khác đi. Tất cả đều do tâm tạo, giống như trò ảo thuật chúng tai vẫn thường làm. Thế giới nào là thật?

Học cách hiểu và kiểm soát năng lực “ảo thuật” mà tất cả chúng ta đều sở hữu này là tu hành. Quý vị có thể đi xa đến chừng nào? Chẳng có gì giới hạn.

Tâm là:

Rộng lớn như Pháp giới

Rốt ráo dường hư không

Đến vị lai tột cùng,

Suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ. (1)

Kinh Hoa Nghiêm (Phẩm Thập Địa)

 

Ghi chú:

(1) Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Địa http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem26PhamThapDia.htm

Bồ Tát này thành tựu đại nguyện, đại dũng, đại dụng như vầy :

Phát sanh trí hiểu biết quyết định thanh tịnh quảng đại, đem tất cả đồ cúng dường cung kính dâng lên tất cả Chư Phật không thiếu sót, rộng lớn dường pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện thọ lãnh tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả Phật pháp, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện trong tất cả thế giới, lúc Phật xuất thế : Giáng thần, nhập thai, trụ thai, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết Bàn, tôi đều đến gần gũi cúng dường, làm thượng thủ trong chúng, thọ lãnh và thật hành chánh pháp, đồng thời chuyển pháp khắp tất cả mọi nơi, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vi lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện tất cả Bồ Tát hạnh quảng đại chẳng hoại, chẳng tạp nhiếp các môn Ba la mật, tu tập thanh tịnh các trí địa. Tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, tất cả Bồ Tát hạnh đều nói đúng như thiệt. Giáo hóa tất cả chúng sanh cho họ lãnh thọ thật hành tâm địa được tăng trưởng, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện tất cả giới chúng sanh : có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hệ thuộc ba cõi, vào sáu loài tất cả chỗ thác sanh, nhiếp về danh sắc, những loài như vậy tôi đều giáo hóa cho họ vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhứt thiết chủng trí. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện tất cả thế giới rộng lớn vô lượng : Thô, tế, loạn trụ, đảo trụ, chánh trụ, hoặc vào, hoặc đi, hoặc đến, sai khác như đế võng, mười phương vô lượng thế giới nhiều loại không đồng, đều thấy biết rõ với trí lực. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại pháp tại nguyện : Nguyện tất cả quốc độ vào một quốc độ, một quốc độ vào tất cả quốc độ, vô lượng Phật độ đều khắp thanh tịnh. Những đồ vật sáng chói dùng để trang nghiêm. Lìa tất cả phiền não thành đạo thanh tịnh. Chúng sanh trí huệ số đông vô lượng ở đầy trong đó. Vào khắp cảnh giới quảng đại của Chư Phật, tùy thuận tâm chúng sanh để thị hiện cho họ đều hoan hỷ. Rộng lớn như pháp giới rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện cùng tất cả Bồ Tát đồng một chí một hạnh không ganh thù, chứa nhóm các căn lành, tất cả Bồ Tát bình đẳng một duyên, thường tập hội không rời bỏ nhau, tùy ý có thể hiện nhiều thân Phật, tự tâm nhậm vận có thể biết cảnh giới của Chư Phật, oai lực trí huệ được thần thông bất thối tùy ý du hành tất cả thế giới, hiện thân trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thác sanh, thành tựu đại thừa tu hạnh Bồ Tát bất tư nghì. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường như không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện thừa pháp luân bất thối tu hạnh Bồ Tát, thân, ngữ, ý ba nghiệp đều không để luống, nếu ai tạm thấy thời được quyết định nơi Phật pháp, nếu ai tạm nghe âm thanh thời được thật trí, vừa sanh lòng tịnh tín thời dứt hẳn phiền não, được thân như cây đại Dược Vương, được thân như châu như ý, tu hành tất cả hạnh Bồ Tát. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Lại phát đại nguyện : Nguyện ở khắp tất cả thế giới thành Vô thượng Chánh giác, chẳng rời một chân lông mà nơi tất cả chân lông thị hiện sơ sanh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh giác, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn, được sức đại trí huệ cảnh giới của Phật trong mỗi niệm thuận theo tâm của tất cả chúng sanh mà thị hiện thành Phật làm cho họ được tịch diệt, dùng Nhứt thiết trí biết tất cả pháp giới chính là tướng Niết Bàn, dùng một âm thanh thuyết pháp làm cho tâm tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. Thị hiện nhập đại Niết Bàn mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát, thị hiện bực đại trí huệ an lập tất cả pháp. Dùng pháp Trí thông, Thần túc thông, Huyễn thông, tự tại biến hóa khắp tất cả pháp giới. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.

Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Hoan Hỷ Ðịa phát đại nguyện như vậy, dũng mãnh như vậy, đại dụng như vậy. Dùng mười nguyện môn này làm đầu đầy đủ trăm vạn vô số đại nguyện.

 

 

Hằng Thật. Ngày 23 tháng 8, 1977

Chúng tôi tán thán danh hiệu Chúa mỗi ngày

 

Phẩm chất thật sự là vô vi

Thế giới thương mại hiện đại đầy dẫy thông tin – thương mại phụ thuộc vào việc quảng cáo. Quảng cáo phụ thuộc vào thông tin về sản phẩm để lôi kéo sự chú ý của quý vị và kiếm tiền từ quý vị. Rất nhiều phương tiện khéo léo ùa đến với quý vị trong mọi lúc: âm nhạc, màu sắc, thông điệp về tình dục, về sợ hãi, về hạnh phúc và nhu cầu. Không khí đầy ngập với những lưỡi câu gạt gẫm và thật khó mà cưỡng lại được những thứ đó. Những lời mà những người quảng cáo dùng để thu hút sự chú ý của quý vị dường như mang lấy sự sống của riêng chúng, những từ ngữ như: Phẩm chất! Giá trị! Tốt hơn! Tiết kiệm! (bằng cách chi tiêu).

Khi xem xét lạ tất cả thì tất cả sản phẩm cũng đều cùng một loại vật liệu “hữu vi” mà sẽ hư hỏng và bị bỏ đi không lâu sau khi dùng. Quý vị không phải tìm kiếm, chỉ ngóng tai nghe, mở to mắt và những trò câu khách sẽ cho quý vị ngập đầy thông tin mà quý vị cần.

Thế giới tự nhiên không có những mánh lới và không hứa hẹn. Nếu quý vị muốn tìm một chỗ ngồi “phẩm chất” hoặc một điểm cắm trại với “giá trị” đích thực thì quý vị cần phải tự đi tìm kiếm cho mình. Có những thông tin để đọc, quý vị phải biết cần tìm kiếm những gì và tìm ở đâu: những thực vật không độc, không gai, không nhện, không kiến, ít đá, bằng phẳng, không có bùn, không có những tấm bảng tài sản tư nhân, không tàu lửa, không xe hơi, không hàng xóm, không chó, không khí thải, không có những thanh niên cỡi xe mô tô, không người yêu hay những tay chạy xe cải tiến để chạy nhanh. Có bóng mát nào để xe không? Có nhà vệ sinh không? Có chỗ đất phẳng để tập thái cực quyền không? Yên tĩnh? Chắn gió? Gần chỗ lạy? Ngoài con đường? Những cảm xúc tốt đẹp?

Chúng tôi sẽ đón nhận. Tất cả đều như nhau. Nó sẽ hủy hoại hoàn toàn và biến mất không quá lâu sau đó.

 

Và lúc này, một lời về Chúa trời.

Thiên chúa toàn năng , theo cách người theo đạo Cơ Đốc giáo gọi vị thần này, là Đế Thích, cũng còn được biết đến là Nhân Đà La (Indra), vị thần này là chủ của tầng trời thứ hai trong các tầng trời, tầng trời của cõi trời thứ ba mươi ba. Đế Thích không phải toàn năng. Các vị Bồ Tát, đại Bồ Tát, những người tu hành, vây quanh cung điện của thần Đế Thích trên trời và đức Phật giao cho thần Đế Thích một nhiệm vụ trong chúng hội của các bậc thánh hiền – đó không phải là một địa vị cao, mà tương tự như quyền lực của một công chứng viên. Vị trí của thần Đế Thích không phải là chuyên quyền – vị trí này luân chuyển và quý vị có thể làm thần Đế Thích trong một kiếp tương lai của mình nếu quý vị thật sự mong muốn điều đó. Khi còn ở trên thế gian, Đế Thích là một người phụ nữ đã làm nhiều việc thiện và đã trùng tu lại một ngôi chùa thờ Phật cùng với sự giúp đỡ của 32 người nữa. Bằng hành động chân thành đó, người phụ nữ ấy đã được tái sanh làm vua Đế Thích ở trên cõi trời của mình, tái sinh làm người nam.

Vị chúa trời Đế Thích hiện nay có rất nhiều quyền lực, có rất nhiều vợ và con trai, có tuổi thọ rất dài. Chúng tôi tán thán tên của vị Chúa trời hằng ngày trong những lời cầu nguyện: Nam mô Nhân Đà La Da. (1)

Vì vậy, Phật tử chấp nhận Chúa trời và cầu nguyện tới Ngài, trân trọng thành quả của vị ấy và một trong những kiếp sống trên con đường chúng ta đạt tới giác hành viên mãn, có thể sẽ đến lượt chúng ta trong vòng quay luân hồi trở lại làm Chúa trời toàn năng. Đạo Phật bao gồm tất cả. Đó là bài dạy về toàn thể vũ trụ. Đọc bộ kinh đó! Sống với Kinh đó!

Một số rất ít người phương Tây đã đọc Kinh Phật – sự giàu có của trí huệ tinh thần trong Kinh sẽ mang lại hòa bình, sức khỏe và hạnh phúc cho rất nhiều gia đình ngay hiện thời. Giờ đây, các cuốn Kinh này đang hiện hữu.

Khi mọi người tu Đạo, Kinh sẽ đi vào đời sống – chúng sẽ như là những bản đồ chỉ đường và sách hướng dẫn. Hành giả đọc Kinh không phải như là một bổn phận, nhưng giống như kẻ khát uống nước, như người lạc trong rừng rậm đi theo con đường lớn tới nơi an toàn.

Chúng tôi nói, “Thật là một tạng Kinh vĩ đại làm sao! Giờ thì mình có nó rồi! Cái đoạn đó đã làm tôi khó hiểu trong nhiều năm!” Tại sao giờ đây nó lại đầy ý nghĩa như thế? Bời vì các nguyên tắc mà Kinh mô tả đến đang bắt đầu hiển hiện rõ bên trong như thể công việc của sự tu hành đang dọn sạch cỏ dại ra khỏi ra khỏi bản tánh.

 

Thành phố Carpenteria.

Trong khi đang lạy, tôi nhìn thấy một thoáng cha tôi nằm trên giường bệnh ở bệnh viện Ann Arbor – ánh sáng của ông đi mất, miệng mở ra, lạnh ngắt.

Một đôi diều hâu to lớn, duyên dáng đứng trên cao, bên trên cánh đồng đã cày xong. Chúng sải cánh, quạt mạnh và quan sát vùng đất phía dưới. Đôi cánh đen có sọc của chúng vẽ thành một bản kinh không lời trên nền trời xanh thẳm. Bám vào một cơn gió, chúng chuyển độ cao và liệng xuống cơn gió, dễ dàng, không đau khổ, tự do khỏi thế gian.

 

Ghi chú:

(1) Nam mô Nhân Đà La Da: Câu trong bài chú Lăng Nghiêm chư Tăng Ni thường tụng mỗi ngày. Trong bài giảng: Giải Thích Sơ Lược Về Bài Tựa Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm http://www.dharmasite.net/KinhHoaNghiem_GiaiThichSoLuocBaiTua.htm , Hòa Thượng Tuyên Hóa có đề cập:

Pháp Giới chư thiên: Người bình thường không biết Phật Pháp cho rằng sanh thiên là cực điểm. “A! sanh về thiên đường, được gần gũi với Chúa Trời.” Thật ra vị chúa trời này cũng chỉ là một vị thần bảo hộ của Phật Pháp (hộ Pháp). Đừng nói ông không lớn lao gì, mà ngay cả chỗ ngồi cũng không có, thậm chí còn phải đứng nữa. Có người nói: “tôi không tin Chúa Trời lại đứng bên chỗ Đức Phật.” Quý vị không tin ư! Vậy quý vị cứ thử xem. Quý vị tin Chúa Trời của quý vị đi, đừng tin Phật làm gì, điều đó cũng chẳng sao đâu.

Vì lẽ, người không hiểu Phật Pháp họ luôn quan niệm Chúa Trời là đấng tối cao. Thật ra trong Phật Giáo, vị Chúa Trời này là một vị quan cai quản dưới đất. Ông được phái trông coi thần dân trăm họ. Ông nói ta là cao nhất, trên thế giới này không ai lớn hơn ta. Ta cai quản các ngươi, các ngươi phải tuân theo mệnh lệnh của ta. Bởi vì ông ta là viên quan trông coi đất đai ở nhà quê, nên những người dân quê này không biết văn hóa là gì, cũng không biết Phật Pháp là gì, lại còn mù chữ, cho nên khi nghe sự điều khiển của viên quan bảo hộ này bèn bảo nhau rằng “Ông ta là chúa của mình, chúng ta nên thường xuyên gần gũi vị chủ quản này.”

Vị quan bảo hộ này có khi một mình đi thăm Thị Trưởng, gặp Thị Trưởng ông phải nghiêng mình cúi đầu chào hỏi. Vì không ai thấy cảnh tượng này nên bà con dân chúng cũng không biết còn có Thị Trưởng quản lý cả ông nữa. Giả như ông đi thăm Tổng Thống, thế thì ông càng phải lịch sự hơn, Tổng Thống bảo: “Ông ngồi đi!”.

“Dạ, không cần đâu! Tôi đứng ở đây cũng được, tôi đứng đã cảm thấy vinh hạnh lắm rồi”. Ông ta là như vậy.

Trong chú Lăng Nghiêm có câu thế này “ Nam mô nhân đà la da”. Nhân đà la da chính là vị chúa trời này vậy. Cho nên quý vị phải nhận rõ diện mạo của ông ta. Sau này nếu có gặp Nhân-đà-la (Indra), nếu ông ấy nói tôi là Vua Nhân-đà-la, quý vị hỏi thử xem:

“Ngài chính là Chúa Trời phải không?”

Chắc chắn nét mặt ông sẽ đỏ lên và nói: “Đúng vậy, đúng vậy!”

Pháp Giới của chư thiên cũng có vô lượng vô biên, không phải chỉ có một chúa trời mà là rất nhiều. Vị chúa trời này đời trước vốn là thân người nữ, vì nhờ có ba mươi hai người nữ giúp cô tạo tượng Phật, đắp vàng lên tượng, thếp vàng vào thân tượng, sau đó được phước báo sanh làm chúa trời. Đó là một câu chuyện lâu xa về trước truyền cho đến ngày nay, cô vẫn được làm chúa trời. Vậy lâu là lâu bao nhiêu? Có mấy ngàn vạn năm về trước, không tính xuể. Quý vị đừng giống như một nhà sử học, nhất định phải truy cứu, nghiên cứu xem coi có bằng chứng nào? Chẳng có chứng cứ nào! Đây chẳng qua là bây giờ tôi giảng cho