Miễn là
thành tâm, ta sẽ tới
để dạy con cho dù con có ở đâu
đi nữa. (1)
Để ghi nhớ những lời dạy của Sư Phụ, tôi đã ghi
lại những lời dạy này. Tôi đã làm thế không vì
lý do nào khác ngoài việc Ngài là thầy của tôi.
Tôi sống ở Đài Loan, trong khi Hòa thượng sống ở
Mỹ. Một lần Ngài nói với tôi:
Miễn là con chân thành, ta sẽ tới để dạy cho dù
con ở đâu đi nữa.
Chừng khoảng một năm kể từ khi Hòa thượng rời xa
chúng ta, nhưng tôi lại không bao giờ nghĩ rằng
Ngài đã ra đi. Trên thực tế, Hòa thượng luôn
luôn quan sát chúng ta từ hư không để xem chúng
ta tu hành thế nào. Tôi muốn chia sẻ một vài lời
dạy của Ngài mà tôi được học trong giấc mơ. Tôi
sẽ thuật lại vắn tắt những gì đã diễn ra mà
không thêm vào bất kỳ một suy nghĩ nào của bản
thân để độc giả có thể tự rút ra kết luận cho
bản thân mình.
Sau khi tôi quy y với Hòa thượng vào năm 1993,
tôi có nhiều giấc mơ, trong đó Hòa thượng xuất
hiện cùng với một số Tỳ kheo rất cao mặc y đỏ
tới Đài Loan để hoằng Pháp. Họ cao đến nỗi tôi
không thể nhìn thấy mặt họ, nhưng họ bước đi rất
trang nghiêm. Vào đầu năm 1993, tôi mơ thấy Hòa
thượng đến Đài Loan cùng với một số vị Tăng và
Ni. Có một cảnh, Hòa Thượng ngồi trong một căn
phòng tiếp tân hình chữ nhật trải thảm đỏ không
có đồ đạc trang trí ngoại trừ ba chiếc ghế gỗ
được đặt dọc theo bức tường. Tất cả các vị đệ tử
xuất gia của Hòa Thượng đã đi hết, chỉ còn Hòa
Thượng ngồi lại trên ghế trước mặt là căn phòng
trống rỗng chờ đợi khách tới. Sau khi mọi việc
được sắp xếp, tôi đứng bên ngoài và nói với
những chúng sanh đang chờ để gặp Hòa Thượng,
“Những ai muốn quy y với Hòa Thượng thì giờ hãy
đi vào phòng, từng người một”. Ai nấy đều rất
vui mừng. Họ xếp thành hàng, đôi tay chắp lại
cung kính và yên lặng chờ đến lượt mình. Họ là
những người có mũi màu xanh lá cây, mắt màu xanh
lá cây, khuôn mặt cũng màu xanh lá cây; thực tế,
cả cơ thể của họ đều là màu màu xanh lá cây.
(Nhiệm vụ của tôi là duy trì trật tự). Tất cả
những việc này dường như hoàn toàn bình thường
đối với tôi trong mơ, nhưng tôi có hai câu hỏi.
Tôi băn khoăn câu hỏi thứ
nhất là: “Tại
sao những người này lại có nhiều tay đến
như vậy? Cứ hai chiếc
tay chắp lại, lòng bàn tay liền nhau. Kiểu giống
như tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm ở Phật Điện Vạn
Phật Thánh Thành, nhưng Bồ Tát không có màu xanh
lá cây”. Câu hỏi thứ hai của tôi là:
"Tôi thực sự rất thấp,
nhưng làm thế nào mà những chúng sinh này chỉ
cao bằng chiều cao của tôi?"
Tôi có thể nhìn thấy những khuôn mặt màu xanh lá
cây của họ và những biểu hiện trên khuôn mặt của
họ rất rõ ràng. Người đứng ở phía đầu hàng nhìn
tôi vẻ thân thiện và mỉm cười. Khuôn mặt của vị
ấy tràn đầy niềm vui sướng và biết ơn khi đứng
chờ được gặp Hòa Thượng. Tôi cũng phát hiện ra
rằng, vị ấy có đôi mắt to hai mí, rất dễ thương.
Ông ta nháy mắt với tôi, đó là cách mà tôi phát
hiện ra anh ta có mắt hai mí.
Do từng người một đi vào trong khi tôi đứng bên
ngoài để duy trì trật tự, tôi không biết chuyện
gì xảy ra bên trong. Sau khi tất cả họ đã được
gặp và quy y với Hòa thượng, Ngài bước ra. Đột
nhiên, tôi phát hiện cái tường đất bên ngoài
phòng lớn bị phủ đầy vết máu. Tôi đã rất ngạc
nhiên và nói với Hòa Thượng, “Hòa Thượng, Ngài
nhìn kìa! Làm sao mà cái tường đó lại phủ đầy
vết máu vậy? Chuyện gì đã xảy ra ạ?” Hòa Thượng
không nói gì, nhưng lượm lên một ít đất và xoa
lên những vết máu trên tường. Tôi làm theo Ngài.
Tôi cũng dùng đôi tay nhỏ của mình bốc đất lên
và xoa lên tường, che tất cả những vết máu ấy
đi.
Khi tôi thức dậy, lúc đó khoảng 4 hoặc 5 giờ
sáng. Chợt lóe ra trong tâm trí tôi, những chúng
sinh trong giấc mơ là cây cối. Những đôi tay của
họ là những cành cây, và họ cao vừa tầm với
chiều cao của tôi là do họ “quỳ”. Tôi nghĩ, họ
thật đáng mến khi họ đi vào phòng bằng đầu gối
của mình, những cành cây của họ lắc lư tới lui.
Tôi đặc biệt nhớ một vị ở phía trước có đôi mắt
hai mí đã nháy mắt và cười với tôi. Rồi tôi
nhanh chóng quên giấc mơ ấy, và chỉ nghĩ đến nó
một năm sau đó khi nghe nói một cây long não ở
núi Phổ Đà, Trung Hoa đã quy y với Hòa Thượng
(2). Trong giấc mơ của tôi, không chỉ có
một cây, mà một hàng dài cây, quy y với Hòa
Thượng.
Trong tháng bẩy âm lịch năm 1994, hai ngày trước
khi tôi tới Hội Phân Phối Sách Phật Giáo Pháp
Giới ở Đài Loan để dự khóa Thất Địa Tạng, tôi mơ
thấy một vị lớn tuổi có dáng vẻ khác thường. Ông
mặc chiếc áo choàng dài kiểu Trung Hoa và có
những người hầu kính cẩn đứng ở một bên, rất
giống một vị chủ tịch của một công ty lớn hiện
nay. Người hầu của ông ấy đưa tôi tới phòng làm
việc của ông. Tôi vẫn đứng một bên. Quang cảnh
bên ngoài văn phòng được thiết kế rất tao nhã
với hoa, bụi cây, những ngọn đồi nhỏ và thác
nước. Rồi ông nói, “Năm nay ở Đài Loan có quá
nhiều bão. (Trong vòng hai tháng mùa hè này, có
tới 9 trận bão. Tuy nhiên, tất cả đều trở nên
nhẹ đi hoặc là biến mất hết). Thầy của ông đã
gánh vác quá nhiều nghiệp của chúng sinh và
không thể tới Đài Loan. Ông nên tới Mỹ để thăm
ông ấy”. Vị ấy đưa cho tôi một cái túi nhựa
trong không được niêm phong, bên trong có ít
tiền Đài Loan rồi nói, “Khi cô gặp Hòa Thượng
Tuyên Hóa, hãy đưa vật này cho ông ấy. Ông ấy sẽ
hiểu”. Tôi cung kính nhận lấy chiếc túi nhựa và
lạy ông ba lần. Tim tôi buồn trĩu và tôi vẫn giữ
yên lặng trong suốt buổi gặp mặt. Tôi thường giữ
yên lặng trước người lớn tuổi để biểu lộ lòng
tôn kính. Dường như lão tiền bối này biết rất rõ
Hòa Thượng; ông gọi Hòa Thượng bằng tên, nói
chuyện với tôi với phong cách nhã nhặn và chấp
nhận những cái lạy của tôi.
Khi tỉnh dậy, tôi không thể hiểu được giấc mơ
của mình. Tôi cũng không thể đi Mỹ vào thời điểm
này. Thứ nhất là tôi không có ngày nghỉ, thứ hai
là không có khả năng chi trả cho chuyến đi. Vậy
làm sao tôi có thể đi để đưa tiền cho Hòa Thượng
được? Ngày hôm sau tôi chợt biết rằng mình mới
được lãnh lương. Sau khi trang trải các chi phí
cố định, tôi lấy một ít tiền trong số tiền còn
lại dùng để chi trả chi phí hàng tháng để thay
thế số tiền trong chiếc túi nhựa và cúng dường
lên Hòa Thượng tại khóa Thất đó.
Tôi đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1995 để lạy
Lương Hoàng Bảo Sám. Do Hoà Thượng bị bệnh nặng,
tôi đã không thể gặp Ngài để hỏi Ngài giải thích
giấc mơ của tôi. Tôi lạy sám rất chân thành và
lập nhiều nguyện. Những cảm ứng trong suốt khóa
lạy bảy ngày đó đã khiến tôi cảm động rơi nước
mắt. Sau khi khóa sám kết thúc, tôi về nhà vào
khuya tối ngày 9 tháng 4. Không lâu sau tôi nằm
mơ thấy Hòa Thượng mở cửa phòng bước vào, dáng
đi không được vững, dựa vào cây gậy. Ngài mặc
chiếc y dày màu vàng, giới y màu vàng, và chiếc
khăn choàng cổ màu đen phủ kín mặt và cổ, chỉ
nhìn thấy đôi mắt. (Hòa Thượng không muốn tôi
nhìn thấy tình trạng ốm yếu của Ngài). Lúc đó,
tôi đang bận làm mấy việc không quan trọng. Khi
Hòa Thượng tới, tôi biết Ngài đến gặp tôi cho dù
đang bị bịnh. Tôi ngay lập tức quỳ gối xuống và
bò về phía Ngài. Tôi nắm lấy chân Ngài và khóc.
Tôi hỏi Ngài, “Hòa Thượng, Ngài đã khỏe hơn chút
nào chưa?” (Điều này là câu trả lời cho những gì
mà lão bối đã nói với tôi. Điều thực sự tôi muốn
hỏi là nghiệp của chúng sinh đã được giảm đi hay
chưa do tất cả đệ tử của Ngài đã lạy sám rất
chân thành).
Đầu tháng 5 năm 1995, lần đầu tiên trong giấc
mơ, tôi chỉ nghe thấy giọng nói mà không nhìn
thấy Ngài, Ngài nói rằng,
“Ta ra khỏi cửa rồi!”
Giọng của Ngài xuyên suốt những đám mây và thấu
suốt hư không. Lúc đó, tôi nhìn thấy vô số chúng
sinh nhìn lên trên không trung với vẻ mặt thờ ơ.
Tôi vẫn đang chơi trên cầu tuột. Đứng ở sàn trên
cùng của cầu tuột, tôi nhìn thấy lớp lớp những
cư sĩ nam và nữ. Khi tôi nghe thấy tiếng của Sư
Phụ, tôi nhanh chóng đứng dậy và bỏ chơi. Tôi
nói, “Tệ quá! Thầy tôi đang tới tìm tôi, vậy mà
tôi vẫn đang chơi đùa trong Lục đạo này”. Tôi
cũng nói với vô số người, nhưng những khuôn mặt
thờ ơ của họ cho thấy họ không nhận ra giọng
nói. Tôi lo lắng nói, “Đó là thầy của tôi, Hòa
Thượng Tuyên Hóa! Quý vị không biết Ngài sao?
Tôi phải đi”. Sau đó tôi tỉnh dậy.
Trong suốt khóa tu Quán Âm và Pháp Hội Thủy Lục
năm 1995, tôi mơ thấy Hòa Thượng hiện tướng nhập
Niết Bàn. Tôi khóc thảm thiết và hỏi Hòa Thượng
tại sao Ngài rời bỏ thế gian sớm quá như vậy?
Ngài sẽ không sống đến một trăm tuổi hay sao?
Bên cạnh đó, tôi cũng đã lập một số nguyện; tại
sao Ngài lại muốn ra đi? Hòa Thượng nhắm mắt lại
và ngay lập tức nước mắt chảy dài trên mặt. Ngài
buồn rầu và vẫn im lặng. Tôi cứ khóc và hỏi Hòa
Thượng lại là tại sao Ngài quyết định rời bỏ thế
gian sớm thế? Nước mắt Ngài rơi lần nữa rồi Ngài
nói,
“Phước của chúng sanh
quá ít ỏi”.
(3)
Và Ngài không nói gì thêm. Suốt thời gian đó
các đệ tử xuất gia của Hòa Thượng quỳ ở một bên.
Tôi hỏi Hòa Thượng khi nào Ngài sẽ trở lại. Lúc
đó, tôi biết mình không thể giữ Hòa Thượng ở lại
lâu thêm được nữa, vì thế tôi dìu Hòa Thượng đi
về phía xe của Ngài. Ở trong xe, Hòa Thượng hỏi
về một vị Pháp sư nào đó để cho cô những hướng
dẫn về Học Viện Phật Giáo. Vị Pháp Sư ấy đã đợi
ở bên ngoài khá lâu nên tôi rời khỏi xe. Thật
lạ! Hòa Thượng đi đâu? Làm sao mà Ngài đi xe
Jeep? Và người lái xe đâu? Tôi biết Hòa Thượng
sẽ không nói cho tôi cho dù tôi có hỏi.
“…Hoặc thấy ngồi đạo tràng
Rõ biết tất cả Pháp
Đến bờ công đức kia
Phiền não si đã hết
Hoặc thấy Thắng trượng phu
Đầy đủ tâm đại bi
Chuyển Pháp luân vi diệu
Độ vô lượng chúng sinh
Hoặc thấy sư tử hống
Oai quang rất thù đặc
Siêu tất cả thế gian
Thần thông lực vô đẳng…”
Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Quang Minh Giác thứ 9.