 |
GIA PHONG
VẠN PHẬT
THÁNH THÀNH |
|
◎Trích từ các bài
giảng của Hòa Thượng Tuyên Hóa |
|
Sáu Đại
Tông Chỉ
Ba Đại
Tông Chỉ
Không rời ba y, bát và tọa cụ; ăn
ngày một bữa vào giữa trưa
Sáu Đại
Tông Chỉ
-
Vạn
Phật Thành lấy Sáu Ðại Tông Chỉ làm mục đích cho
việc tu học. Ðó là không tranh, không tham,
không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không
nói dối. Nếu quý vị có thể hiểu chân thật
nghĩa của Sáu Đại Tông Chỉ này, thì quý vị sẽ
không uổng công đến Vạn Phật Thánh Thành.
-
Không tranh, không tham, không cầu, không ích
kỷ, không tự lợi, và không nói dối: Ðây là
căn bản để làm người, nền tảng cho việc tu hành,
và là tiêu chuẩn cho chính quyền.
-
Bước đầu
của Phật Pháp là
không tranh, không tham, không cầu, không ích
kỷ, không tự lợi, và không nói dối. Nếu quý
vị có thể nhớ Sáu Ðại Tông Chỉ này thì có
thể về sau thành Phật.
-
Tôi
muốn nói Sáu Ðại Tông Chỉ này cho những ai muốn
thành Phật, những ai muốn thành Bồ Tát, Thanh
Văn, A La Hán. Ðây là những tông chỉ quan trọng
nhất. Nếu quý vị thực hành những tông chỉ này,
quý vị có thể sử dụng chúng suốt đời mà không
cùng tận! Dùng không bao giờ hết!
-
Nếu quý vị
muốn làm một Phật Giáo đồ chân thật, quý vị phải
không tranh, không tham, không mong cầu, không ích
kỷ, không tư lợi và không nói dối. Từ hồi nhỏ, tôi
tuân theo Sáu con đường sáng không tranh, không
tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tư lợi và
không nói dối.
Cái gì người khác muốn thì tôi không muốn.Cái gì
người khác không dùng bỏ đi, thì tôi lượm lên. Tôi
như thế đó! Tất cả quý vị có thể làm như vậy không?
Nếu được như thế, tôi chúc mừng quý vị là những
người Phật tử tốt.
-
Tu hành
gồm có
không tranh, không tham, không mong cầu, không ích
kỷ, không tư lợi và không nói dối. Nếu quý vị có
thể giữ vững Sáu Đại Tông chỉ này, quý vị là đệ tử
chân chánh của Phật. Nếu quý vị không bước đi trên sáu con đường quang minh này, thì e rằng quý vị
không làm ích lợi cho Phật giáo lắm.
-
Giới luật
là gì? Đó là:
không tranh, không tham, không mong cầu, không ích
kỷ, không tư lợi và không nói dối. Đó là giới luật.
Đừng tìm giới luật trong sách giới luật. Những điều
này mọi người đều làm được. Mọi người đều có thể
thực hành được.
-
Phương
diện nào của Pháp là quan trọng nhất?
không tranh, không tham, không mong cầu, không ích
kỷ, không tư lợi và không nói dối. Mỗi ngày dùng Sáu
Đại Tông Chỉ này làm thước đo hành vi của mình. Nếu
chưa làm đúng tiêu chuẩn, nên lập tức sửa đổi mình.
Khi không còn làm điều sai lầm và chỉ còn toàn là
công đức, lúc đó quý vị có thể được xem là Phật tử.
Đây là Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành.
Tôi hy vọng mọi người tuân theo, mọi người đều giác
ngộ, và mọi người đều thành Phật.
-
Nếu muốn
học để có trí tuệ chân chật, thì trước hết phải
"đoạn dục".
Làm sao để "đoạn dục"? Bằng cách
không tranh, không tham, không mong cầu, không ích
kỷ, không tư lợi và không nói dối. Sáu đại tông chỉ
này là Pháp bảo này giúp đắc được trí huệ chân
chánh.
-
Tà kiến là gì? Nếu quý vị tranh, đó là tà kiến. Nếu quý vị
tham, đó là tà kiến. Nếu quý vị mong cầu, đó là tà
kiến. Nếu quý vị ích kỷ, đó là tà kiến. Nếu quý vị
tư lợi, đó là tà kiến. Nếu quý vị nói dối, đó là tà
kiến.
-
Nếu quý vị đã nghiên cứu và thực hành Phật Pháp mấy chục năm
nhưng vẫn còn tham lam tiền bạc! Vẫn còn mong cầu
danh lợi!. Vẫn còn tham, tranh không ngừng. Đó là vì
quý vị không hiểu nghiên cứu và thực hành Phật Pháp
như thế nào. Nếu quý vị hiểu cách học Phật, quý vị
sẽ không muốn những thứ này nữa.
-
Khi tu Đạo, quý vị phải dựa trên không tranh, không tham,
không mong cầu, không ích kỷ, không tư lợi và không
nói dối. Chỉ khi đó, quý vị sẽ có sự hiểu biết đúng
đắn và cái nhìn đúng đắn (chánh tri chánh kiến) và
có thể tu Đạo. Nếu quý vị không tu hành
Sáu Ðại
Tông Chỉ
này và quý vị muốn nói mình là một người tu hành, đó là điều
không thể được.
-
Nếu một người có tâm tranh, tâm tham lam, tâm cầu danh, cầu
lợi, quảng cáo bản thân hay muốn mọi người sùng bái
cá nhân, nếu tự tư, tự lợi, không nói lời chân thật,
quý vị nên biết rằng người đó bị cảnh giới ma quỷ.
-
Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không
mong cầu, không ích kỷ, không tư lợi và không nói
dối, khi đó Chánh Pháp trụ ở thế gian.
-
Mục đích của tu hành là dừng lại tất cả các tâm tranh, tâm
tham, tâm mong cầu, tâm tự tư, tư lợi và tâm nói
dối. Chúng ta muốn ngăn chặn đình chỉ không cho
chúng hoạt động. Ngay tại đó, trí tuệ sẽ hiển lộ và
phát ra đại quang minh, chiếu phá màn đêm vô minh.
Khi ấy chúng ta minh Tâm kiến Tánh (hiểu Tâm thấy
được bản tánh) và thành tựu mục đích tu hành.
-
Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích
kỷ, không tư lợi và không nói dối – tất cả những
điều này được xem như là chân tâm. Khi tâm dụng công
chân thật, tất cả các nghiệp chướng sẽ tiêu trừ. Nếu
tâm không chân thật, các nghiệp chướng sẽ đeo bám
quý vị.
-
Nếu quý vị có thể cẩn trọng giữ gìn tông chỉ không
tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ,
không tư lợi và không nói dối thì chư Phật mười
phương sẽ đến hộ trì, hộ niệm quý vị.
Chư Phật sẽ luôn đến gia bị cho quý vị.
-
Làm thế nào thoát khỏi phiền não? Phương pháp thì cực kỳ đơn
giản – chỉ cần không tranh, không tham, không mong
cầu, không ích kỷ, không tư lợi và không nói dối.
Nếu quý vị có thể thực hiện được những điều đó thì
tất cả lậu thoát đều chấm dứt và các phiền não được
hàng phục.
-
Tại sao quý vị không thể tự tại vô ngại? Đơn giản bởi vì quý
vị vẫn còn tranh, tham, mong cầu, ích kỷ và tư lợi.
Vì thế quý vị không cảm thấy tự tại.
-
Điều gì là khoa học chân chánh? Không tranh là khoa học.
Không tham là khoa học. Không mong cầu bất cứ thứ
gì là khoa học. Không ích kỷ - chính là khoa học
chân thực. Không tư lợi - đó cũng là khoa học chân
thực. Thêm nữa, nếu quý vị cũng không nói dối, thì
đó cũng là khoa học học chân chánh.
-
Những người làm việc phiên dịch Kinh sách phải nhất định cần
phù hợp với sáu đường lối quang minh rộng lớn là
không tranh, không tham, không mong cầu, không ích
kỷ, không tư lợi và không nói dối.
-
Nếu chúng ta muốn cứu giúp thế giới này, đầu tiên chúng ta
phải không tranh, không tham, không mong cầu, không
ích kỷ, không tư lợi và không nói dối. Chúng ta phải
làm gương mẫu, làm mô hình cho người khác neo theo.
Như thế thế giới mỗi ngày sẽ càng trở nên bình yên
hơn.
-
Dù là hạnh gì, phái gì, tông gì, hay tôn giáo gì, nếu đều
hết sức đem lại lợi ích cho người khác và không làm
lợi cho bản thân, như thế đó là nơi đáng tin cậy. Rõ
hơn nữa, nếu một người bề ngoài giúp người khác
nhưng bên trong lại có ý đồ được điều gì đó – nếu
không tham tài, thì tham sắc; nếu không tham sắc,
thì tham danh hay lợi lộc gì khác – thì đó đều là
không chân thật.
-
Tôi giảng tới giảng lui cho quý vị đều là điều xưa
cũ. Đạo lý này có vẻ rất đơn giản nhưng lại không dễ
thực sự làm được. Nếu quý vị có thể làm được, quý vị
đã thành Phật từ rất lâu rồi. Nếu quý vị thực sự
thực hành Sáu Đại Tông Chỉ này và nếu quý vị không
thành Phật thì tôi sẽ ở mãi trong địa ngục không có
ngày ra. Tôi đem lòng tin ra bảo chứng rằng những ai
tu hành theo Sáu Đại Tông Chỉ này sẽ chắc chắn thành
Phật.
Không
Tranh
-
Tại sao mọi người không thể sống hòa hợp trên thế
giới này? Bởi vì họ
tranh
đấu
với nhau,
cướp đoạt
của
nhau
và
không
nhường nhịn
lẫn
nhau. Do đó, chiến tranh nổ ra, dẫn đến tình trạng
quốc gia bị tàn phá, gia đình tan nát.
-
Nguyên nhân ma quỷ
trở thành ma quỷ là
vì
chúng có
tâm
hướng
đấu
tranh
giành thắng.
Có câu nói
rằng:
Tranh là
tâm hơn thua,
Ði ngược
lại với Ðạo,
Sanh ra
bốn tướng tâm
Làm sao
được Tam-muội?
Khi một con quỷ không giành
được vị trí
số một,
thì
khởi sanh tâm
giận
dữ,
ganh
tỵ,
và
chướng ngại.
Bất cứ ai có suy nghĩ hay hành vi như vậy đều
là ma
quỷ và
vĩnh viễn
không bao giờ thành Phật.
-
Người tu
hành
không
được
có
sự tranh giành
với thế gian.
Không
cạnh tranh hay đấu
tranh
với bất cứ ai. Tất cả mọi người nỗ lực
dụng công.
Người
khác
nỗ lực dụng công cũng tốt như chính mình nỗ lực dụng
công
vậy. Nếu
suy
nghĩ như
vậy,
thì quý vị
sẽ không có
tâm tranh giành
vị trí đứng đầu.
-
Nếu
quý vị
không
còn dung chứa
bất kỳ
một tâm niệm
đấu
tranh nào,
thì
quý vị sẽ
cắt
đứt
được
liên hệ
với thế giới của A tu la. Nếu
quý vị
không tham lam, thì
quý vị sẽ
cắt
đứt
liên
hệ
với
thế giới của loài súc sanh.
Không Tham
-
Là đệ tử Phật thì nên nhẫn chịu sự thiếu ăn, chịu
đựng rét lạnh, đói khát. Trong mọi hoàn cảnh quý vị
cần nên phù hợp với Phật pháp. Không tham ăn ngon,
mặc đẹp hay sống ở nơi cao sang. Không nên có tâm
tham hưởng thụ. Chịu khổ thì sẽ hết khổ, nhưng nếu
hưởng phước thì sẽ hết phước.
-
Không nên tham cầu giả danh. Trong mọi cử chỉ hành
động, trong mọi lời nói, việc làm, quý vị cần phải
trung thực, quý vị phải thành thật một cách triệt
để. Đó chính là cá tính căn bản (bản sắc) của người
Phật tử.
-
Phật tử chúng ta cần có con mắt "Trạch Pháp Nhãn".
Chúng ta không nên có lòng tham mong cầu tiện nghi
hay cảm ứng, không nên dùng tâm tham đi khắp nơi cầu
Phật Pháp. Không nên như hôm nay nghe nói Hiển Tông
là tốt thì học theo Hiển Tông, nhưng hôm sau có
người bảo Mật Tông hay thì qua Mật Tông để học. Dù
quý vị có tu suốt kiếp nhưng bởi vì không có tông
chỉ vững chắc, quý vị không thể chuyên nhất, không
thể thuần nhất, không thể giữ trụ vào "một", nên rốt
cuộc cũng chỉ là uổng phí cuộc đời.
-
Quý
vị hãy xem việc tu hành là bổn phận của mình. Không
cần phải tham. Lâu ngày chầy tháng công đức sẽ tự
viên mãn và tự nhiên quý vị sẽ thành tựu quả Bồ Đề.
-
Trong lúc tu hành hãy dụng công một cách tự nhiên.
Không nên tham lam và thắc mắc không biết có hiệu
quả hay có kết quả tốt gì không.
Đừng suy tưởng đến việc gì cả;
cứ tiếp tục dụng công và sửa đổi lỗi lầm của mình
hằng ngày.
-
Hành giả cho dù tu theo pháp môn nào, như là niệm
Phật, trì chú, tụng kinh, trì giới hay tu thiền, đều
không nên tham cầu mau được chứng đắc. Nếu quý vị
mong sao mau được chứng đắc thì đó cũng là một loại
tâm tham. Một khi có tâm tham, nó sẽ gây trở ngại
cho trí huệ linh cảm và tự tánh quang minh của quý
vị. Tự tánh quang minh thì hoàn toàn không có tâm
tham. Một khi có tâm tham thì nó như là bụi bám vào
gương. Người tu hành cần hiểu rõ điểm này. Không nên
tham được nhiều, không nên tham tiện nghi.
Không
Mong Cầu
-
Dù chúng ta dụng công như thế nào cũng không
tương ưng với đạo, không bao giờ thành. Nguyên
nhân do đâu? Đó là vì chúng ta có hư vọng, có
vọng tâm
không chân thật. Chúng ta mong cầu cái cao xa,
tìm cầu danh lợi. Tất cả đều là vọng tâm.
-
Quý vị mong cầu
hạnh phúc bên ngoài, tìm cầu hạnh phúc từ sáng tới khuya. Nếu đạt được thì
cũng chỉ là hạnh phúc nhất thời mà thôi. Còn quý
vị không đạt được thì sinh tâm phiền não. Quý vị
tham lam vô độ, vừa muốn có hạnh phúc, có được
rồi thì lại lo sợ đánh mất nó. Đây không phải là
hạnh phúc chân chính. Hạnh phúc chân chính là
không mong cầu. Có câu rằng ‘đáo vô cầu xứ tiện
vô ưu', nghĩa là khi đạt đến chỗ không mong cầu
thì không còn lo lắng. Nếu quý vị không còn tâm
mong cầu thì đó là hạnh phúc chân chính. Đó là
sự an lạc chân chính của tự tính quý vị.
Không
Ích Kỷ
-
Về cơ bản chỉ có một giới luật mà thôi, đó là
không ích kỷ. Nếu con người ích kỷ, họ sẽ phạm
giới. Nếu họ không ích kỷ thì sẽ không phạm
giới. Cũng vậy, nếu ích kỷ, họ sẽ phạm quy củ.
Nếu không ích kỷ, thì họ sẽ không phạm quy củ.
-
Chánh tâm chính là không ích kỷ. Nếu quý vị ích
kỷ thì quý vị không có chánh tâm.
Không
Tự Lợi
“Tài bồi tâm thượng địa,
Hàm dưỡng tánh trung thiên.”
(Vun bồi mảnh đất tâm linh,
Nuôi dưỡng bầu trời bản tánh.)
Nếu ta thường làm lợi cho người, thì qua thời gian
chúng ta sẽ tạo công đức. Nếu ta luôn muốn người
khác làm lợi cho mình, nhưng ta không làm lợi cho
người; nếu ta luôn tìm cách chiếm tiện nghi và có thói ỷ
lại vào người khác, thì chúng ta hoàn toàn vô dụng.
-
Khi
học trò mới bắt đầu học làm người, ta dạy chúng
không để tâm trí vào sự huởng lợi, không xem tiền là
quan trọng. Người xưa học để tìm hiểu đạo lý (minh
lý). Ngày nay người ta học vì danh lợi. Họ muốn được
nổi tiếng và có lợi lớn. Tại sao như thế? Bởi vì
trường học dạy học sinh không đúng đắn. Do đó thế
giới mỗi ngày mỗi tồi tệ hơn, mỗi ngày mỗi đọa lạc hơn.
Không nói dối
-
Trừ khi không nói thì thôi. Nếu nói thì luôn nói lời
trung thực. Không bao giờ nói bất cứ điều gì để lừa
mọi người. Bất luận trong trường hợp nào, ta thành
thật nói sự thật, và luôn giữ gìn miệng của mình,
không nói dối gạt.
-
Tôi không nói dối. Bất kỳ ở đâu, tôi cố gắng chân
thật. Tôi nói và hành xử thẳng thắn, và tôi không
dùng bất cứ thủ đoạn nào trong
đối xử với mọi người,
mọi sự việc (xử thế tiếp vật). Nếu có điều gì tôi muốn nói, tôi sẽ nói
ra bất luận dù ở nơi nào. Tôi không sợ mất lòng
người ta. Nếu có điều gì tôi không muốn nói, tôi sẽ
không nói cho dù ở đâu. Tôi tuyệt đối không nói dối
hay lừa gạt người.
-
Mọi người nên nói thành thật thường xuyên hơn. Ngay
cả khi bị đánh đập hoặc bị la mắng, ta vẫn nói sự
thật. Đừng sợ. Tôi nói cho quý vị nghe, tôi là người
ngay thật. Tôi là người lập giữ cuộc sống ngay thẳng
mà không khom lưng bợ đỡ. Nếu người ta muốn trừng
phạt tôi, thì cứ việc làm; không sao cả. Nếu quý vị
trừng phạt tôi vì nói sự thật, tôi vẫn nghĩ rằng nó
đáng giá, và tôi sẽ không oán hận. Tôi không mong
người ta tin bất cứ điều gì tôi nói. Ngay cả họ
không tin, tôi vẫn cố gắng hết sức mình.
-
Nếu quý vị nói dối, thì dù quý vị tụng bất cứ chú gì
cũng sẽ không linh nghiệm. Hay tụng bất cứ Kinh gì
cũng sẽ không có linh ứng. Nếu quý vị muốn tụng chú
hay tụng Kinh điển có được cảm ứng hoặc thành tựu,
thì không thể nói dối. Hãy chân chân thật thật, nói
lời chân thật, cần nói lời chân thật, không nói lời
thêu dệt.

Chúng ta nên mở
rộng tầm nhìn và có tư tưởng phóng khoáng. Chúng ta
không nên chỉ biết đến chính mình, hoặc chỉ biết đến
gia đình mình, hoặc chỉ biết có quốc gia của mình.
Chúng ta phải mở rộng tâm lượng tận hư không bao
trùm Pháp Giới. Cần suy nghĩ vì toàn thể nhân loại,
không chỉ tính toán cho bản thân mình. Đem lại lợi
ích cho nhân loại, không gây hại cho nhân loại: Đây
là điều kiện căn bản để tu hành Phật Đạo.
Làm thế nào
chúng ta có thể đem lại lợi ích cho nhân loại và
không gây hại cho nhân loại? Chúng ta phải thực hành
Sáu Ðại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành:
1.
Không Tranh. Chúng ta
không tranh đấu với bất cứ người nào: Nếu bạn
tranh với tôi, tôi không cùng bạn tranh; bạn chửi
rủa tôi, tôi không mắng bạn; bạn đánh đập tôi, tôi
không trả đũa; bạn lừa dối, ức hiếp tôi, tôi không
lừa dối, ức hiếp bạn. Ðó là tông chỉ nhất quán của
Vạn Phật Thánh Thành.
2.
Không Tham. Tâm tham lam
mà nổi dậy thì không bao giờ có đáy; bất luận là
tham tiền, tham vật chất, tham gì cũng không ngừng,
không cho là đủ. Càng tham là càng không cho là đủ,
càng không thấy đủ thì càng tham, tham cho tới già
vẫn chưa tỉnh ngộ! Bị chữ tham này làm hại cả đời,
đến chết rồi cũng cảm thấy rằng mình chưa chiếm được
vật này vật kia nên hết sức hối tiếc; thật là đáng
thương xót!
Ở Vạn Phật Thánh Thành, tông chỉ
thứ hai này nghĩa là không tham bất cứ tiền bạc, lợi
ích, hoặc danh tiếng tốt đẹp. Nói tóm lại, tất cả
mình đều không tham; mình chỉ theo bổn phận hoằng
dương Phật Pháp, nối tiếp huệ mạng của Phật mà thôi!
3.
Không Mong Cầu.
Chữ “mong cầu’’ và chữ “tham’’
không khác nhau mấy. “Tham’’ thì lúc có lúc không,
mà “cầu’’ thì cứ cầu cạnh hoài, tới đâu cũng tìm
cách móc nối với người khác để phòng thủ lợi, dùng
bất cứ thủ đoạn gì để đạt được mục đích mới thôi.
Cầu gì? Cầu tiền tài, vật chất, nói tóm lại là cầu
tất cả thứ lợi ích. Ở Vạn Phật Thánh Thành thì hướng
nội, hướng vào tâm mà cầu chứ không phải hướng ra
ngoài cầu. “Nội cầu ư tâm’’ là muốn trừ sạch hết
vọng tưởng, cuồng tâm, dã tánh, đố kỵ, chướng ngại,
tham, sân, si...; mình cầu sao cho trừ sạch những
thứ đó. Mình không hướng bên ngoài mà trang sức,
trang điểm; chỉ cần làm sao cho trong lòng thanh
tịnh, trang nghiêm là đủ. Có câu rằng: Nhân đáo vô
cầu phẩm tự cao. (Khi con
người đạt tới chỗ không còn mong cầu gì cả thì phẩm
đức của họ sẽ tự trở nên thanh cao.) Khi không cầu
cạnh gì người khác thì phẩm cách tự nhiên thanh cao.
Cũng chẳng có tư tưởng bẩn thỉu.
4.
Không Ích Kỷ. Vì sao thế
giới suy sụp tới mức độ như vậy? Bởi vì con người
quá ích kỷ: Ðối với điều có lợi cho mình thì tranh
nhau mà làm, chuyện gì đối với mình chẳng có ích thì
khoanh tay ngồi nhìn, ví như nhà bên cạnh có cháy
thì mình cũng ngoảnh mặt làm ngơ! Lòng ích kỷ có
nhiều thứ, có người ích kỷ vì địa vị, có kẻ ích kỷ
vì danh dự, vì quyền lợi, hoặc vì tiền bạc. Tóm lại,
tất cả đều do lòng ích kỷ tác quái nên không nghĩ
đến kẻ khác, chỉ lo cho riêng mình; nên có câu:
Ma-ha-tát bất quản tha,
Di-Ðà Phật các cố các.
Nghĩa là:
Bậc Ma-ha-tát không nghĩ
đến người khác,
A-Di-Ðà Phật, ai nấy lo.
Ðây là lời nói đùa mang tư tưởng
Tiểu-thừa. Người nhà Nho cũng từng nói:
Các tảo tự kỷ môn tiền
tuyết,
Hưu quản tha nhân ngõa
thượng sương.
Nghĩa là:
Tuyết trước cửa nhà, mình
tự quét,
Sương mái nhà người, chớ
bận tâm!
Ðây là nói đến tác phong không lo
chuyện người ta. Nhân sinh ở tại trần thế cần phải
giúp đỡ lẫn nhau, lo lắng cho nhau, do đó nên đề
xướng tư tưởng Ðại-thừa, học tập tinh thần của
Bồ-tát, nghe khổ thì tới cứu, không được ngoảnh mặt
làm ngơ!
Người đời nếu không có lòng ích
kỷ thì có thể cùng nhau ở chung vui vẻ như trong một
nhà vậy, chỉ vì lòng ích kỷ cho nên tạo ra rất nhiều
vấn đề rắc rối. Do đó, Không Ích Kỷ là tông chỉ thứ
tư của Vạn Phật Thánh Thành.
5.
Không Tự Lợi. Tông
chỉ này trọng yếu hơn là tông chỉ thứ tư. Có ai mà
chẳng tự lợi, song le, mình nhất định không tự lợi;
nếu ai cũng được như vậy thì thế giới sẽ trở nên tốt
đẹp. Không tự lợi
tức là muốn lợi ích cho người
khác mà thôi, là quên mình đi. “Xả kỷ vi nhân’’
nghĩa là quên mình vì người, tinh thần này còn hơn
cả hành vi của bậc Bồ-tát! Bồ-tát thì tự lợi lợi
tha, tự độ độ tha, tự giác giác tha; còn mình thì
không tự lợi mà chỉ lợi tha, chỉ độ tha, và chỉ giác
tha mà thôi!
6.
Không Nói Dối.
Tức không có
tâm lừa bịp người khác. Vì sao
người ta nói dối? Là bởi vì sợ mình mất đi lợi ích,
sợ mình bị thua thiệt, nên mới tìm cách dối trá! Nếu
mình thường dùng chân tâm thành thật mà đối đãi với
mọi người thì tự nhiên mình có thể giữ tròn tông chỉ
thứ sáu này, tức là không Dối Trá.
Ngày hôm nay tôi đem Sáu
Đại Tông Chỉ này giới
thiệu cho các vị nghe, nếu muốn giảng cho rõ ràng
thì không bao giờ giảng hết cả. Nếu quý vị
thực hành Sáu Đại Tông Chỉ
này thì các vị dùng
được
lợi ích suốt đời. Thọ dụng lợi ích không ít.

Bất cứ ai
có thể thực hành được Sáu
Đại Tông Chỉ
của Vạn Phật Thánh Thành
thì sẽ
đủ
tư cách
để trở thành
Phật
tử.
Sáu Đại Tông Chỉ này là:Không
tranh,
Không
tham,
Không
mưu cầu,
Không
ích kỷ,
Không
tự lợi,
và
Không
nói dối.
Quý vị
có thể sử dụng
đạo lý
của Phật giáo để giải thích
các tông chỉ này.
Quý vị
cũng có thể sử dụng
đạo lý
của Đạo
Lão
để giải thích.
Cũng
có thể giải thích
các tông chỉ này
bằng
đạo lý
của Khổng giáo. Nói chung,
quý vị
có thể giải thích cho
người khác bằng
bất cứ cách nào
mà mình thích.
Với
các đạo lý này đều viên dung vô ngại.
Chúng rất hợp lý.
Những
tông chỉ
này bao gồm các
đạo lý
của tất cả các tôn giáo.
Chúng
là những phương pháp rất thiết thực.
Các
giới luật của Phật giáo có thể được giải thích theo
nhiều cách khác nhau, nhưng
đều
không
ngoài phạm vi của
Sáu Ðại
Tông Chỉ
này.
1. Nếu không
tranh,
thì sẽ
không
giết hại.
Giết hại
xảy ra
do tâm tranh khống chế.
Khi
quý vị tranh,
quý vị
có thái độ "Tránh
ra khỏi
đường của tôi hay là
phải
chết !"
Hậu quả thương
vong
không thể tính đếm được.
2.
Nếu không tham lam,
thì
sẽ không
trộm
cắp. Tại sao muốn
trộm
cắp những thứ của người khác? Vì tham lam. Nếu
quý vị
không tham lam,
thì
ngay cả khi
có người
muốn cho quý vị một cái gì đó,
quý vị vẫn không muốn nhận.
Vì vậy,
quý vị
nên
dẹp bỏ
tham lam,
thì khi
đó
quý vị
sẽ không
trộm
cắp.
3. Nếu
không mưu cầu,
sẽ không có
tâm dâm dục.
Tâm dâm dục sanh khởi
vì
có tâm mong cầu.
Nữ
tìm
cầu
bạn trai,
nam tìm cầu bạn gái.
Họ không
chỉ tìm kiếm,
mà
lao
vào truy đuổi
như không có gì khác quan trọng
hơn.
Nếu
họ
không tìm
cầu thì
làm sao
họ có tâm dâm dục?
Một
chàng trai tuấn tú hay
một cô gái mỹ miều chỉ là hai túi thịt hôi hám mà
thôi!
Liệu có đáng để ước muốn không?
Nếu
quý vị không mưu cầu,
quý vị
sẽ không vi phạm giới
luật về
tà dâm.
4. Nếu không ích kỷ,
thì
sẽ không nói dối.
Mọi người
nói dối bởi vì họ sợ mất lợi ích cá nhân.
Ích
kỷ
khiến người ta mất tự chủ,
họ lừa và nói dối
người khác,
với hy
vọng
che
giấu
bộ
mặt thật của
mình.
5. Nếu không theo đuổi lợi ích cá nhân
(tự lợi),
thì
sẽ không vi phạm giới luật ngăn cấm dùng các chất
gây
say. Tại sao người ta
thích
những chất gây nghiện? Bởi vì họ
muốn làm cơ thể và tâm trí mê loạn,
đến mức họ nghĩ
là
họ đã trở thành thần thánh hoặc
tiên,
đang du ngoạn ở trên trời.
Khi
say rượu, họ
tùy thích la
mắng
mọi
người,
ham
muốn dục vọng
tăng trưởng.
Một số người cũng
tưởng dùng rượu
để
giúp gia tăng lưu thông khí huyết.
Uống xong thì
quên tất cả mọi thứ.
Đó
là thứ
kích thích
như hút thuốc phiện.
Tất cả đều vì do tâm tự lợi khống chế cho nên họ đã
dùng
những chất gây say.
6.
Không
nói dối. Tại sao không nói dối
cũng
là một trong
Sáu Đại Tông Chỉ?
Để nhấn mạnh
thêm.
Nếu
quý vị
vi phạm bất kỳ
cái nào thuộc
năm
tông chỉ
trên
thì quý vị
sẽ nói dối. Nếu không vi phạm
những tông chỉ trên thì quý vị sẽ không
nói dối.
Như vậy không
nói
dối
là một trong những yêu cầu cơ bản cho những người
học
Phật giáo.
Sáu
tông chỉ
trên
chỉ là tên khác cho năm giới
luật. Thực tế,
tất cả mọi người cũng đã nghe
đến các
điều này
trước
đây
và hiểu
chúng,
nhưng rất ít người có thể thực sự thực hành chúng.
Đó là lý do tại sao tôi nhắc nhở tất cả mọi người:
Không tranh nghĩa là
không giết
hại.
Không
tham lam
nghĩa là
không
trộm
cắp.
Không mưu cầu nghĩa là
không
tà dâm.
Không
ích kỷ
nghĩa là
không nói dối.
Không tư lợi nghĩa là không
dùng các chất
gây
say.
Ba Đại
Tông Chỉ
Tông chỉ của
Tổng Hội Phật Giáo luôn luôn là:
Lạnh chết, không phan duyên. Ðói chết, không hóa duyên. Nghèo chết, không cầu duyên. Tùy duyên nhưng không đổi; Không đổi mà tùy duyên. Giữ vững ba đại tông chỉ của chúng ta.
Xả mạng vì Phật sự. Tạo mạng là bổn phận.
Sửa mình là việc Tăng. Gặp sự gì thấu lý ấy, Hiểu lý gì hành sự ấy. Tiếp nốì nhất mạch tâm truyền của Tổ Sư.
Nói về việc tu
hành, tôi cảm thầy người xuất gia cần nên: (1) Không
nên đi đến phan duyên với những người giàu có quyền
quý. (2) Không nên thường hướng ra bên ngoài để hóa
duyên và (3) Không nên mọi chuyện đều hướng
đến người khác cầu duyên - cầu sự giúp đỡ.
"Lạnh chết, không phan duyên.” Ðây là sự diễn
tả về cuộc đời của tôi. Khi tôi ở Mãn Châu, mùa đông
cũng như mùa hạ tôi đều mặc ba lớp áo vải như nhau -
một lớp áo vải mặc bên trong và ngoài thì khoác một
lớp áo với những mảnh vá, từng miếng, từng miếng vá
đắp lên trên. Bấy giờ tôi có thấy lạnh không? Lạnh
chứ! Thế sao tôi phải kiên trì chịu đựng như thế?
Bởi vì tôi muốn theo tông chỉ “lạnh chết, không phan
duyên” đấy!
"Ðói
chết, không hóa duyên.” Khi tôi ở trong động
Quán Âm, trên núi Phù Dung tại Hồng Kông, cả hai
tuần lễ liền tôi không có lương thực. Tôi bèn tọa
thiền trong động để chờ chết. Lúc bấy giờ, dưới núi
có vị cư sĩ tên là Lao Khoan Thánh, biệt hiệu là
“Pháp Sư Bổn Ðịa” của vùng đó. Và ông được Bồ Tát Vi
Ðà báo mộng liên tiếp ba lần rằng: “Trong động Quán
Âm có vị Pháp sư tên An Từ, ông nên lên đó cúng
dường cho ông ta.” Thế là ngày hôm sau, vị cư sĩ này
vác hơn ba mươi cân gạo và mang theo hơn 70 đồng đến
hang động cúng dường tôi. Ba bốn tháng trước khi
chuyện nầy xảy ra, ông cư sĩ này bị chó cắn ở chân.
Các bác sĩ đông y và tây y chữa trị cho ông cả mấy
tháng, nhưng trị không khỏi; họ đành bó tay chịu
thua. Bồ Tát Vi Ðà thích lo chuyện của người khác
nên mới bảo ông: “Ông đi cúng dường cho vị Pháp sư ở
động Quán Âm thì chân sẽ lành ngay.” Thế là ông ta
tin tưởng mà đem gạo và tiền đến cúng dường. Lúc bấy
giờ trong động, tôi chuẩn bị chờ chết đói, song xưa
nay tôi chưa hề nói với bất cứ người nào rằng: “Xin
ông thương xót tôi, đã qua nhiều ngày rồi mà tôi
không có gì ăn hết!” Ðó gọi là “đói chết, không
hóa duyên.”
“Nghèo
chết, không cầu duyên.” Lúc tôi mới đến chùa Nam
Hoa ở Quảng Ðông, được thân cận Ðại Lão Hòa Thượng
Hư Vân, trên mình tôi chẳng có một đồng một chữ. Cả
đến tiền gởi thơ tôi cũng không có, nhưng tôi chưa
từng đến các vị cư sĩ để hóa duyên. Bởi vậy ba đại
tông chỉ nầy của tôi đều có căn nguyên, chứ không
phải vô căn cứ đâu.
Khi tôi mua Vạn
Phật Thánh Thành, mọi người thấy chỗ này quá to lớn
và sợ rằng tôi sẽ kêu gọi họ đóng góp, do đó họ sợ
hãi lánh xa. Dẫu vậy, tôi không bao giờ than phiền
với bất cứ người nào về những khó khăn của tôi. Khi
tôi làm việc, tôi không mong cầu bất cứ sự đền bù
nào và tôi chắc chắn sẽ không yêu cầu người khác
giúp đỡ. Tôi chỉ nghiến răng chịu đựng và tự nỗ lực.
Xả mạng vì Phật sự.
Điều này
có nghĩa
là
chúng ta
không
quan tâm đến
sanh mạng
của
mình.
Chúng ta
xả bỏ thân mạng.
Chảy máu,
đổ
mồ hôi,
và không
dừng lại để nghỉ ngơi,
chúng ta
đến
để
làm việc
cho Phật
giáo. Vì chúng ta
là
Phật tử
và chúng ta
đã xuất gia,
chúng ta
không
thể
chỉ đơn giản
nhìn
Phật giáo
suy tàn
giảm
và
bị
người
khác
khinh thường.
Thậm chí
còn
có nghĩa là
từ bỏ
sanh mạng
của chúng ta,
chúng
ta
muốn làm cho Phật giáo
phát triển.
Chúng
ta
muốn
dùng Chánh
Pháp để
cứu
người
trong
thế gian
tàn
khốc
và bị áp bức
này.
Chúng ta
muốn
chúng
sanh
được
sống trong
hòa bình
và
an lạc.
Tạo mạng là bổn phận.
Người xưa
nói: "Quân
tử có cái học tạo mệnh, Mệnh do mình lập, Phước do
mình cầu. Phước với họa chẳng có cửa,
Chỉ do mình tự chiêu cảm
lấy." (*).
Chúng ta
là
phàm
phu,
nhưng chúng ta có thể
thay đổi chính mình
từ
phàm phu
thành thánh nhân.
Sửa mình là việc Tăng.
Người
xuất gia
phải nghiêm thủ các giới điều Phật chế.
Ví dụ,
giới y được
người xất gia mặc
là
một
biểu tướng
đặc biệt. Nếu không
đắp
giới y, thì không có hình tướng của
một
vị
Tỳ Kheo.
Ăn
ngày
một bữa
vào buổi trưa
cũng là
một nguyên tắc được thiết
lập bởi Đức Phật.
Giảm
thiểu
lượng
thức ăn và
thức
uống
đem
lại kết quả
làm giảm dục vọng,
ham muốn.
Với
ít ham muốn,
thì tu hành
dễ dàng hơn.
Vì vậy,
chúng ta
không nên
ăn
thức ăn quá
bổ dưỡng.
Đó
là cách chúng ta
thực hành tại
Vạn Phật Thánh Thành.
Mặc dù
chưa
hoàn hảo
lắm,
chúng ta
hy vọng
mọi người sẽ
dụng công
để cải
thiện bản thân.
Chúng ta cần nên Gặp sự gì thấu lý ấy, Hiểu lý gì hành sự ấy
với nguyên tắc Tiếp nốì nhất mạch tâm truyền của Tổ Sư.
Mọi người nên làm việc một cách
trung thực và chân thành. Chúng ta không cần nói
quá nhiều, và việc làm của chúng ta nên vượt
hơn
lời nói
của chúng ta. Nếu chúng ta có niềm tin vào
chính mình, thì
sau đó những người khác chắc chắn sẽ
theo chúng ta. Bằng cách đó, không những chúng
ta chu toàn bổn phận
người
xuất gia, mà
Phật giáo sẽ được hồi sinh, và
Mạt Pháp
sẽ
tự nhiên
biến thành
Chánh
Pháp.
Chú
thích:
(*) Nguyên văn
Hoa ngữ: 君子有 造命之學,命由我 立,福自己求,禍 福無門,惟人自招 - Quân
tử hữu tạo mệnh chi học, mệnh do ngã lập, phúc tự kỉ
cầu, họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu.

Không
rời ba y, bát và tọa cụ; ăn ngày một bữa vào giữa
trưa là gia phong của chúng ta
Khi tu hành
chúng ta phải giữ vững các nguyên tắc của chúng ta,
không được lãng quên. Khi học Phật pháp chúng ta
cũng phải giữ vững các nguyên tắc này vì chúng là
mục đích của chúng ta. Một khi chúng ta đã nhận ra
rõ ràng mục tiêu của mình thì chúng ta phải tiến tới
một cách dũng mãnh và tinh tấn, không được thoái
lui. Nói tới vấn đề này, tôi nhớ lại lúc mới
xuất gia, tôi nghĩ rằng :”Người xuất gia rất nhiều
nhưng có phải tất cả đều thông hiểu Phật pháp không? Có
phải tất cả đều có một mục đích không?”. Sau đó tôi tìm
hiểu vấn đề này, tôi phát hiện có một số đông các
người xuất gia không hề có hoài bão tu hành cũng như
chấm dứt sanh tử. Trên thực tế họ hầu như chẳng có
một mục tiêu rõ ràng nào cả. Họ đều là làm cho qua
chuyện, ”ăn no rồi chờ chết”. Hạng người xuất gia này
chẳng giúp ích gì mà trái lại còn gây thêm nợ, gây
thêm rắc rối, và tạo thêm gánh nặng cho Đạo Phật. Họ
không hữu ích gì cho Phật giáo.
Tôi còn khám phá
thấy thêm rằng Phật tử tại Trung Hoa không hề ý thức
được Phật giáo là gì. Đức Phật giảng Kinh thuyết
Pháp đều là để chúng sanh đời sau hiểu rõ đạo lý
Phật pháp. Vậy thì các đệ tử của Phật phải truyền bá
giáo pháp của Ngài như thế nào? Tôi nghĩ kỹ hơn thì
tôi nhận ra Phật giáo chưa thật sự bắt rễ tại Trung
Hoa. Phật giáo ở Trung Hoa thật sự không có nền tảng
vì vậy không thể đứng vững khi đối diện với các khảo
nghiệm và sự đàn áp từ bên ngoài. Vì sao không có
nền tảng? Vì không nhận thức được nền tảng này. Vậy
chứ cái gì là nền tảng của Phật giáo? Nền tảng của
Phật giáo chính là giáo dục. Giáo dục phải bắt đầu
từ trẻ em, phải dạy cho chúng kiến thức về Phật
giáo, về trí tuệ của Phật giáo, và tư tưởng của Phật
giáo. Ít nhất thì trẻ em được nuôi nấng và dạy dỗ để
trở thành những công dân tốt và có đạo đức của quốc
gia và thế giới. Với nền tảng vững chắc trong tư duy
và mục tiêu của mình, người này sẽ có thể truyền bá
Phật giáo môt cách sâu rộng. Như thế, các giáo nghĩa
căn bản của Phật giáo sẽ không bị lãng quên.
“Con người
hoằng Đạo chứ không phải Đạo hoằng người “. Vậy
chúng ta làm sao mà hoằng đạo đây? Chỉ khi nào chúng
ta có một mục tiêu rõ ràng, một lý tưởng để chúng ta
toàn tâm toàn ý thực hiện. Còn về cái Phật giáo mất
gốc này ở Trung Hoa, thực ra nó chẳng có gốc cũng
chẳng có thân, mà chỉ đơn thuần là chỉ xoay vần ở
trên đầu cành nhánh mà thôi. Phật giáo ở Trung Hoa
chỉ bao gồm các buổi lễ cầu siêu cho người chết. Đây
là hình trạng của Phật giáo Trung Hoa. Họ đều không
lường trước được nếu tình trạng này tiếp diễn thì sẽ
tạo ra một hàng ngũ những kẻ du thủ du thực, trở
thành người trong Phật giáo để kiếm ăn. Thật đáng
tiếc. Họ chỉ biết làm thế nào để kiếm tiền bằng cách
thực hiện các buổi lễ cầu siêu cho các vong linh.
Khi thực hiện các buổi lễ này nếu quý vị là một vị
tăng có đạo hạnh, thỉ không cần đọc kinh hay niệm
chú gì cả. Quý vị chỉ cần nói với vong linh này:”Hãy
đi đầu thai đi” thì lập tức vong linh này sẽ được về
Cõi Cực lạc. Tuy nhiên nếu quý vị không có đức hạnh
và không chú trọng về phẩm hạnh của mình thì quý vị
có năng lực gì để độ thoát chúng sanh đây? Trên thực
tế quý vị đã mang nợ của thí chủ. Hơn nữa các hành
trì đức Phật thiết lập không còn được coi trọng
Ví dụ như Phật
giáo Trung Hoa đã không còn ai theo truyền thống đắp
giới y trong sinh hoạt thường ngày nữa. Vì sao họ
không đắp giới y ? À, nếu quý vị hỏi họ, họ cũng
không biết tại sao. Thật ra Tỳ kheo và Tỳ kheo ni
phải đắp giới y và ăn ngày một bữa. Nhưng họ đã quên
tất cả những điều này. Ý tưởng này thật là đã cách
xa họ tới cả 108,000 dặm đường trong trí nhớ của họ
nên họ đã không còn biết ý nghĩa của việc mặc áo
giới và ăn ngày một bữa. Trong giới Phật giáo Trung
Hoa, không ai hiểu được điều này. Có thể còn một
hoặc hai người còn đắp y và ăn ngày một bữa, nhưng
có lẽ cũng không có được nhiều như vậy trong hàng
vạn người. Có thể nói họ còn hiếm hoi hơn cả lông
phượng hoàng và sừng kỳ lân. Thật là rất hiếm có.
Nếu quý vị hỏi họ một Tỳ kheo nên có hình tướng như
thế nào thì họ rất mù mờ. Ngày nay tại Trung Hoa và
các quốc gia khác, phần lớn người xuất gia theo
truyền thống Bắc tông không đắp giới y. À, họ cảm
thấy đây là một việc rất tự nhiên, hiển nhiên là
phải như vậy. Họ có biết chăng khi không đắp giới y
họ đã không còn thể hiện tướng Tỳ kheo nữa.
Họ nói, “À! Phật
giáo
Bắc Tông (Đại
Thừa)
là về Bồ tát,
mặc dù Bồ tát không đắp giới y thì họ cũng vẫn là Bồ
tát đó thôi”. À, là Bồ tát thì vẫn phải đắp y, vì họ
phải đặc biệt trang nghiêm. Quý vị thấy Quán Thế Âm
Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát đều mang
những châu báu trang sức rất quý giá. Tuy chỉ là giả
tướng nhưng những châu báu này dụ cho một điều khác.
Các châu báu này đều là pháp biểu thị, những trang
sức này biểu thị trang nghiêm các cõi Phật. Vì thế
người tu hành cần phải tuân theo các quy củ. Đừng đi
lê gót chân hay có cử chỉ điên khùng. Quý vị
nói:”Nhưng sao Hòa Thượng Tế Công cũng khùng khùng
điên điên vậy?”. Ngài Tế Công giả điên vì Ngài muốn
kêu người ta bố thí cho những người điên. Cũng vì
Ngài muốn giáo hóa người tại gia không nên coi
thường nhũng người mất trí, cũng không nên khinh
thường họ. Trong số những người điên này có cả những
vị quyền biến thị hiện tướng điên khùng, che giấu
hình tướng chân thật của họ để giáo hóa chúng sanh.
Vì sao người
xuất gia theo Phật giáo Đại Thừa ở khắp nơi không
đắp y? Đó bởi vì khi Phật giáo Bắc tông truyền lên
miền Bắc, vì khí hậu miền Bắc quá lạnh chỉ đắp một y
thì không đủ ấm. Người xuất gia không chịu nổi cái
lạnh nên họ phải mặc thêm mấy lớp áo bên dưới cái y
này. Các lớp áo bên dưới này có thể giúp tránh cái
lạnh nhưng khi đắp y thì y rất dễ bị rơi tuột xuống.
Khi Phật giáo mới truyền sang Trung Hoa có lẽ người
xuất gia không được khéo léo cho lắm. Họ có thể là
hơi vụng về nên y của họ thỉnh thoảng bị rớt mất.
Một khi mất y rồi vì không có tiền để may y mới nên
họ phải đi các nơi hóa duyên làm các người tại gia
sợ hãi. Sau một thời gian, những người xuất gia này
bèn mở một cuộc họp và quyết định như sau:”Cứ như
vậy hoài thì không xong vì y của chúng ta thường bị
rớt mất và khó khăn lắm mới may được một cái y mới.
Người Trung Hoa sống rất tằn tiện, may một cái y mới
cho chúng ta đối với họ thật không phải là rẻ tiền.
Thật là rắc rối nếu chúng ta làm mất y.” Lúc đó có
một vị Tổ sư trông có vẻ khờ khạo nghĩ ra một giải
pháp. Ngài nói:”Tôi có một ý kiến. Chúng ta có thể
may thêm vào áo một cái kẹp và một cái vòng móc rồi
móc chúng lại với nhau vậy thì y sẽ không bị tuột ra
nữa." Chiếc y của người xuất gia tại Trung Hoa được
chế ra như vậy đó. Nhờ cái móc và cái vòng mà từ đó
áo của người xuất gia không bị tuột xuống nữa. Từ đó
trở đi, kiểu này đã trở thành kiểu y của người xuất
gia. Chiếc y nguyên thủy thì không có móc và vòng.
Móc và vòng được thêm vào tại Trung Hoa sau này. Quý
vị có thể thấy theo truyền thống Nam tông thì áo của các
nhà sư ở Ấn độ không có móc và vòng. Từ đó chúng ta
nhận định rằng khi Phật giáo truyền đến một vùng đất
mới thì các cải cách được đưa ra cho phù hợp với địa
phương và phong tục tập quán của con người.
Nhưng tại Trung
Hoa, sau khi có những cải cách này, người ta bắt đầu
thoái lui và không đắp giới y nữa. Vì lúc đó người
xuất gia phải tham gia công việc đồng áng để duy trì
cuộc sống. Khi họ ra ngoài làm việc họ phải cởi bỏ
áo giới y vì không được thuận tiện cho lắm nên họ
chỉ mặc lớp áo bên trong. Giới y được xếp qua một
bên trong lúc họ làm việc. Nhưng sau một thời gian
họ không còn đắp giới y nữa ngay cả khi họ không làm
việc ngoài trời. Một vài người vẫn đắp y khi lên
chánh điện hoặc trong lúc thọ trai. Nhưng trong
phong tục hàng ngày thời nay, người xuất gia đã
không còn đắp y khi lên chánh điện hoặc trong lúc
thọ trai nữa. Tuy nhiên họ vẫn cho rằng mình xứng
đáng là người xuất gia.Thật ra ngày nay tại các quốc
gia như Trung Quốc, Đài loan, Hồng kong, Việt Nam và
tất cả các khu vực có Phật giáo Bắc tông, người xuất
gia chỉ mặc một cái áo dài và họ cho đây là y phục
của người xuất gia. Đây là một sai lầm lớn. Nếu
người xuất gia không đắp y thì cũng giống như họ đã
hoàn tục. Họ cũng không có gì khác so với người tại
gia. Chỉ đơn thuần mặc một cái áo dài có cổ tròn
không có nghĩa là người xuất gia. Và ngay cả khi quý
vị có đắp y mà quý vị vẫn còn phạm giới mỗi ngày và
không chân thật. huống hồ là khi quý quý vị không
mặc giới y!
Vậy thì trên
thực tế Phật giáo không tồn tại ở Trung Hoa cũng như
ở những nơi mà "Phật giáo" từ Trung Hoa truyền lưu
đến. Nó đã không còn diện mục nguyên thủy của Phật
giáo nữa. Khi tôi suy ngẫm về hiện trạng này tôi
muốn làm một cuộc cải cách để chỉnh đốn khuynh hướng
này tại Trung Hoa, nhưng tôi biết rằng tôi chỉ là
một người tầm thường mà lời nói không có ảnh hưởng
nào. Tôi không có địa vị và chẳng có ai lắng nghe
những gì tôi nói. Dù tôi có gào thét khan cả cổ thì
cũng chẳng có ai tin. Bởi vậy tôi phát nguyện sẽ tái
thiết Phật giáo tại phương Tây và làm cho Phật giáo
được hưng thịnh trở lại để cho quần chúng hiểu rõ
Phật giáo là gì. Do vậy ngay khi tôi tới Hoa Kỳ, tôi
một mình chủ trương việc đắp y và ăn ngày một bữa.
Vì người Hoa Kỳ luôn tìm cầu tiện nghi hưởng thụ, họ
không thích lắm khi được bảo mặc giới y. Tuy nhiên,
tại Hoa Kỳ còn có môt ít người xuất gia không mặc
giới y, nên tôi có thể đề xướng việc mặc giới y. Tôi
cũng đề xướng việc ăn ngày một bữa, bởi vì ngay cả
khi tôi chưa xuất gia, còn ở nhà thì tôi đã ăn ngày
một bữa rồi, và suốt những năm sau khi xuất gia, tôi
vẫn ăn ngày một bữa. Bởi do tôi không có đức hạnh
cũng như các thành tựu tu hành gì khác, tôi chỉ có
thể dạy cho những người theo tôi xuất gia bắt chước
những biểu hiện bên ngoài này của tôi mà thôi.
Phàm
những người nào theo tôi xuất gia, bất kể là nam hay
nữ, đều phải ăn ngày một bữa. Tôi chỉ chấp nhận họ
nếu họ có thể ăn ngày một bữa. Đây là điều kiện sắt
thép (phải tuân theo) cho những người xuất gia với
tôi. Nhất định không thể thay đổi. Bất kể thời gian,
bất kể là áp lực như thế nào trong mọi trường hợp,
điều này quyết không được thay đổi. Đạy là vì tôi đã
đề xướng phong cách của Phật giáo này là phải đắp y
và ăn ngày một bữa trong nhiều thập kỷ qua. Tôi đề
xướng điều này khi tôi mới tới nước Mỹ và tôi vẫn
đang luôn cổ vũ việc này cho tới ngày hôm nay. Mấy
chục năm đã trôi qua, người ta dần dần trở nên quen
thuộc với điều này và tôi tin rằng họ sẽ sẵn sàng
chấp nhận điều này với cả tấm lòng của mình. Mọi
người sẽ hiểu được phương pháp mà tôi dùng để giáo
hóa chúng sanh.

Mọi
người đều biết
danh tiếng
vàng
ngày ăn một bữa
của Vạn Phật Thánh Thành.
Cho dù đi, đứng, ngồi,
hoặc nằm,
những người xuất gia
tại Vạn
Phật
Thánh Thành
không rời giới y.
Họ có đủ ba
y, bình bát và tọa cụ (vải ngồi)
theo giới luật của
Phật giáo
cho phép.
Trong
Giới
Luật
nói rõ ràng
rằng
mặc giới y
phát sinh
mười loại công đức.
Dù quý vị
không
tham lam
để có được công đức,
quý vị không
thể thiếu
tướng Tỳ
Kheo.
Quý vị có
thể nói
rằng:
"Tôi không
có tham tâm,
và tôi
không muốn công đức."
Quý vị
có thể
không
tham
muốn
công đức,
nhưng quý
vị
vẫn
cần phải có
phước
đức.
Phước
đức
này do tích lũy vun trồng từng chút một mà có
được.
Bất cứ lúc
nào, bất cứ ở đâu, quý vị
cần phải vun trồng phước đức, vun trồng trí tuệ.
Quý vị phải
trưởng dưỡng phước đức và trí tuệ của mình.
Nếu
quý vị không vun trồng
phước đức, trí tuệ,
quý vị sẽ
không có
tư cách
để
thọ
nhận
cúng dường
của
người.
Ngày nay người ta vô tình làm thói quen xấu trở
thành một quy ước. Những người không mặc áo giới
được xem là ‘Phật tử chân chánh’, trong khi những
người mặc áo giới thì bị xem là giả mạo.
Những
người
mặc giới y
bị chỉ
trích, cho
là kỳ quái. Chính
Đức Phật đã
sở hữu ba
y,
một bát, và
tọa cụ (vải
ngồi),
và
ngài
luôn
mặc giới y.
Các
đệ tử
của Đức Phật
cũng vậy.
Nhưng khi
Phật giáo truyền vào Trung
Hoa,
tất cả đều
không đắp giời y!
Sau đó,
những người
trong
Phật giáo
bắt đầu nói
rằng đắp y là sai.
Có một
câu chuyện
(công án)
về việc
các
học sinh
từ
Trung
Hoa
đại lục
lúc
mới đến
Đài
Loan.
Bởi vì
các
học sinh
này
đã
trốn chạy để bảo toàn sanh mạng nên
không
ai trong số
các
học sinh này,
ngoại trừ
một hoặc hai, nhớ
để mang
theo
văn bằng
tốt nghiệp
của
mình.
Khi họ
nộp đơn thi tuyển vào
trường
đại học ở
Đài Loan, họ
hoảng loạn
khi
được
yêu cầu
cung cấp
bằng
tốt nghiệp
của họ.
Vì
vậy, họ
tìm kiếm
khắp nơi để tìm một
bằng tốt nghiệp
làm
mẫu.
Khi
họ tìm thấy
một
văn bằng thật,
họ sao chép
lại làm bản
giả mạo.
Họ
gởi
nộp
các văn
bằng
giả
đó đến Bộ
Giáo Dục,
và sau đó
được phép
thi vào Đại Học
và ghi danh vào
Đại
Học.
Tuy nhiên, khi
một người nào đó
gửi bằng
tốt nghiệp thật
của mình
đến Bộ
Giáo Dục,
thì bị xem
là văn bằng giả mạo.
Bộ
Giáo Dục
nói, "Văn
bằng tốt
nghiệp của
các
người
khác
đều
sạch sẽ
và
được
giữ
gìn cẩn thận.
Tại
sao
văn bằng của quý vị lại nhăn nheo và rách nát?
Quý vị chắc
chắn
đã giả
mạo
văn bằng
và làm
cho nó
trông
cũ
kỹ
và
dơ
bẩn
với
mục đích
để mọi người
không
nhận ra được."
Vì vậy,
Bộ
Giáo Dục
đã từ chối
chấp nhận
văn bằng (thật) này.
Tất cả
quý vị hãy suy
nghĩ về điều này:
Những
cái
giả
thì
được cho
là
thật,
còn cái thật thì bị
cho là
giả.

Nếu người xuất gia mà không mặc áo giới, thì cũng
giống như đã hoàn tục.
Vì
Phật giáo
ở Trung
Hoa đã hủ bại, đọa
lạc,
tôi đến
nước
ngoài xiển
dương
rằng
người xuất gia
nên
ngày
ăn
một bữa và
luôn
đắp giới y
theo
giáo
điều
của
Đức Phật.
Tại
Vạn Phật Thánh Thành,
chúng ta
giữ gìn
quy
củ
ngày
ăn
một bữa ăn
và đắp
giới y.
Nếu quý vị
nhận thức được gia phong của Vạn Phật
Thánh,
quý vị
sẽ
thà chết hơn
là
thay đổi
những quy củ này. Quý vị
sẽ nghĩ
rằng:
"Ông muốn
tôi
không đắp
giới y?
Hãy
bảo
tôi
chết, nhưng
đừng bảo
tôi
không đắp
giới y!
Hãy
bảo
tôi
chết, nhưng
đừng bảo tôi
không
ăn một
bữa mỗi ngày."
- với loại định lực kiên cố như vậy, với tín tâm như
vậy,
quý vị
là một thành viên
thực sự của
Vạn Phật
Thánh Thành. Một
khi tôi
nhận ra
mục tiêu của tôi, tôi sẽ không
biến đổi thậm chí
dù
tôi
phải chết. Ngay
cả khi
vào Thiền
Đường nếu không đắp giới y, thì dầu cho
có thể
khai ngô
ngay
khi
vừa
ngồi
xuống,
tôi
cũng
không
dám
làm điều đó!
Đối với
việc đắp
giới y,
ở Trung
Hoa
không
những người xuất gia không
đắp giới y
trong
khóa Thiền,
mà
họ
còn không
đắp
giới y
vào
bất cứ
lúc nào.
Không có
tu viện
nào mà nơi
đó
người
ta đắp giới
y.
Họ đã
quen với
điều đó rồi.
Nếu
người xuất gia
không
đắp giới y,
thì
mất đi
hình tướng Tỳ
Kheo.
Những
chiếc áo
tràng
dài và
áo
tràng
với tay
áo
rộng
mà
họ mặc là
trang phục
của triều
đại nhà Đường,
vốn
không
phải
là một
phần
của Phật giáo.
Điều
này có gì
làm
bằng
chứng?
Hãy
nhìn
xem!
Các
tu sĩ
Phật
giáo Nguyên Thủy,
ngay cả cho
đến
ngày
nay,
họ
vẫn
luôn đắp giới y
của họ
vào mọi lúc.
Tại
sao tại
Trung Hoa người xuất gia lại không đắp giới y?
Điều đó
rất
dễ hiểu.
Đó
là vì
người Trung
Hoa
rất
cần cù
làm việc.
Họ
làm rất nhiều
công việc
lao động
chân tay.
Khi
họ đi ra ngoài
để làm việc,
giới y
trở
thành
một sự bất tiện.
Vì
vậy,
khi
đi ra ngoài để
làm việc,
họ cởi
giới y ra và chỉ
còn lại
áo
tràng bên
trong khi làm việc.
Vì giới y
gây trở ngại cho
công
việc của họ,
họ ngưng
lại việc
đắp giới y. Sau
một thời gian dài,
họ đã
quen
với việc không đắp giới y và
bắt đầu
nghĩ rằng
chiếc áo
tràng
bên trong
họ mặc lúc ngủ
là
trang phục
thích hợp
cho
người xuất gia. Trên
thực tế,
họ chỉ
duy trì
trang
phục
của triều
đại nhà Đường.
Quần
áo
của
người thế tục
bình
thường
đã thay
đổi
về kiểu phục sức,
trong khi
người xuất gia
vẫn giữ kiểu phục
sức
cũ và
không thay đổi
trang phục triều đại nhà Đường.
Họ đã coi
đó
như là
trang phục
đặc biệt của
người
xuất gia,
nhưng điều
đó hoàn toàn sai lầm.
Nếu
quý vị không
đắp
giới y, thì quý vị
không
khác gì
một người
trần tục
với một cái đầu cạo trọc.
Quý vị
không
phải là
một
người xuất gia!
Vì sao
lại
không phải
là người xuất gia?
Vì quý vị
quá tùy tiện cẩu thả.
Trong mỗi
hành vi, mỗi cử
chỉ của quý vị, quý vị còn
không
biết rằng
mình
là một người
xuất gia.
Trong
khóa Thiền
dĩ nhiên là
họ không
mặc áo giới.
Trong Giới
Luật có nói: "Y không rời thân".
" Ba
y, bát, tọa
cụ cần mang theo mình khi đi nơi nào.
Nếu
quý vị không
mang
theo những
vật này là
vi phạm
giới luật.
Nhưng nếu
quý vị
hỏi
những
người xuất gia
hiện
nay,
có người
nào
có thể
nói rằng
giới y
của họ
không bao giờ rời
thân
họ?
Đây chỉ là
hình
tướng
bên ngoài.
Đây không phải là
trường hợp
đắp giới y
làm
người ta
thành
người
xuất gia.
Nếu
quý vị mặc áo giới
mà không giữ
giới luật, thì quý
vị
vẫn
không thể
được xem
là người xuất gia.
quý
vị
chỉ là
một
Tỳ Kheo
phạm giới,
và thậm
chí còn tồi tệ hơn
là cư sĩ.
Như thế,
ngay cả
khi quý vị
đắp
giới y, quý vị còn
thường
vọng tưởng
dâm dục,
thưởng
tưởng nghĩ
thị phi.
Nếu
quý vị không đắp giới y nữa, thì
tôi
không
tin
rằng
quý vị
là
một vị Bồ Tát, hoặc
một
vị
Thanh
Văn,
hay là một
vị Duyên
Giác.
Còn có việc
ăn
ngày một
bữa.
Tại sao tôi
ăn
ngày một bữa?
Từ
lúc trẻ
tôi đã có suy nghĩ là tôi
nguyện
thay chúng sanh thọ
khổ.
Những
phước
đáng hưởng,
tôi đều
tặng
cho mọi
người
và khổ
của
mọi
người
hãy giao cho một
mình tôi chịu.
Nguyên nhân là vì lúc
Nhật
Bản
đánh Trung Hoa, người
Nhật
bắt
người
Trung Hoa và nhốt
trong các trại lao động,
bắt làm lao công cực
nhọc nhưng
ăn không đủ
no, mặc
không đủ
ấm,
nên họ bị
lạnh
chết,
đói chết,
rồi
đem bỏ
xác họ
cho chó ăn. Thấy
người Trung Hoa bị khổ như vậy, tôi nhận thức ra là
trên thế giới có nhiều người không có ăn.
Vì vậy
tôi bắt
đầu
ngày ăn một
bữa.
Lúc
tôi
còn
ăn ba bữa, tôi có thể ăn năm chén cơm trong mỗi bữa
ăn. Sau
đó khi tôi
bắt đầu
ăn một
bữa mỗi ngày, tôi chỉ ăn
ba
chén cơm,
như thế
tôi
dành lại
mười hai
chén cơm
cho những
người
không có
thức ăn
để ăn.
Ở một nơi
lạnh
như Mãn
Châu, tôi
có nguyện ý
chỉ
mặc ba
lớp vải
ngay cả khi trời mưa
vào mùa đông.
Bằng cách đó,
vải và
bông mà tôi
tiết kiệm
được
có thể
dành
cho
những người không
có quần áo để mặc.
Đó
là vì sao
tôi
ăn ngày
một bữa.
Về sau tôi
xuất gia, nhưng vì tại Hoa Kỳ
thời
tiết
không
quá lạnh,
tôi đã không đặt hạn chế về
quần áo.
Đối
với
thực phẩm,
những người
xuất gia
với tôi,
dù là nam hay nữ,
tất cả đều phải
chỉ ăn một bữa
mỗi ngày và giúp
tôi tiết kiệm một số
thực phẩm
cho những người không có
thực phẩm
nào
để ăn.
Ở Trung Hoa
không có
nơi nào ăn ngày
một bữa.
Thiền Thất
ở Trung Hoa,
có thể được
gọi là Thực Thất (khóa
ăn). Họ có ba thời trà và bốn thời cơm, ngoài ra còn
có thêm món bánh bao vào thời khuya nữa. Nếu quý vị
cho rằng quý vị như thế mà vẫn dụng công tinh tấn
thì tôi không tin được! Tôi ngày ăn một bữa mà đã
cảm thấy rắc rối, phiền phức lắm rồi; vậy mà, quý vị
có thể ăn bốn bữa cơm và thêm bữa bánh bao vào buổi
tối nữa thì sẽ như thế nào? Trong
Phật giáo
Trung
Hoa họ gọi
bữa ăn tối là
"uống
thuốc" (dược thạch). Điều này
được gọi là
"bịt
tai ăn cắp
chuông." Đó
là lừa dối
mình và
lừa dối người khác.
Họ muốn
ăn vào ban đêm, vì vậy
họ gọi
việc đó là
"uống thuốc." Đó là
Phật giáo tại Trung
Hoa - một Phật Giáo
lừa dối
người.
Tôi
không có cách nào
để cải cách Phật
Giáo Trung Hoa. Tại Hoa Kỳ, tôi đã
kiến lập
gia phong hải ngoại
hoàn toàn
khác với
Phật giáo ở châu Á.
Ở Hoa Kỳ,
mọi người thích
hưởng thụ. Bởi vì
cuộc sống của họ
rất thoải
mái, ngay cả khi
người xuất gia
có bánh
bao hấp và bánh
để ăn, dù thức ăn
của họ có ngon đến đâu cũng
không
bằng thực
phẩm của người
tại gia.
Ồ!
Người tại gia
có thể thưởng
thức tiệc
hải sản và các
món thịt phủ phê lãng phí.
Vì vậy, tôi đã
đề xướng
việc thực hành
ăn ngày
một bữa để
đối trị sự hưởng thụ này. Người Mỹ
đều thích hưởng thụ.
Tôi đến
đây không phải
để nói
Pháp cho
người Trung Hoa,
tôi đến đây để
giáo hóa
người Hoa Kỳ. Đối tượng để tôi giáo hóa là
người Hoa Kỳ, không phải là người Trung Hoa. Người
Trung Hoa chỉ là phụ.
Tôi đến
từ châu Á, cách xa
hàng ngàn dặm,
tới
Hoa Kỳ, hoàn toàn một thân một
mình.
Đến
ngay vào
trung tâm lãnh thổ của
các tôn giáo khác,
tôi đề xướng
việc thực hành
ăn ngày
một bữa như là cách
đối trị cho
lối sống
hưởng thụ của
người Hoa Kỳ.
Nếu quý vị
có thể ăn
ngày một bữa
thì mới có thể
xuất gia.
Nếu quý vị
không thể ăn
ngày một bữa, thì
quý vị không đủ
điều kiện, không đủ tư cách
để xuất gia.
Đó là ăn
ngày một bữa.
Đối với việc đắp
giới y, ở Trung
Hoa
tôi không thể nói
"những
người xuất gia"
đã thực
sự rời khỏi
nhà (xuất gia) hay
chưa? Đơn giản là
tôi không
biết.
Bất cứ ai cũng
có thể
cạo đầu và
làm vài
vết đốt nhang
và
tự gọi mình là
người xuất gia.
Không có
tiêu chuẩn
về hình tướng biểu thị.
Đó là lý
do tại sao tôi yêu cầu
tất cả mọi người
xuất gia
tại Vạn
Phật Thánh Thành đều
đắp giới y. Tôi
đến Hoa Kỳ
mở đường, tôi đề xướng
các thực hành
đắp
y và ngày ăn
một bữa.

. |
|
|