宣化老和尚 The Venerable Master Hsuan Hua

Chinese | English | Vietnamese

般若波羅蜜多心經非臺頌解 

Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh

(Bài “Phi Ðài” Tụng và thuyết Giảng)[1]

 

 

“Phi Ðài Tụng” trong “BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH PHI ÐÀI TỤNG GIẢI” do Lão Hòa Thượng trước tác trong năm đầu của thập niên 60, gồm mười lăm bài tụng, mỗi bài tám câu, mỗi câu gồm bảy chữ để giải thích Tâm Kinh. Ngài giảng TÂM KINH và Phi Ðài Tụng tại Phật Giáo Giảng Ðường ở San Francisco từ ngày 20 tháng 4 đến ngày 27 tháng 7 năm 1969. 

“BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH PHI ÐÀI TỤNG GIẢI” bao gồm ba phần: phần Kinh văn hay Chánh văn (của Tâm Kinh), phần kệ tụng giải thích phần Kinh văn, và phần giảng giải của Hòa Thượng cho cả phần Kinh văn và phần kệ tụng chung với nhau.

 

Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát!

BPD Việt Ngữ

 

 

Kinh văn: 

 

Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.

         Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị.

        Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỵ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc.

       Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Cứu cánh niết-bàn.

       Tam thế chư Phật, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thiệt bất hư. Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

       Yết đế yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

(Ðường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Phụng Chiếu Dịch)

 

Dịch nghĩa:

  Khi Bồ-tát Quán tự Tại thực hành thâm sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, soi thấy năm uẩn đều không, Ngài vượt thoát mọi khổ ách.

          Này Xá-lợi-tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy cả.

          Này Xá-lợi-tử, tướng của mọi pháp là không, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm. Do đó trong cái không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ tập diệt đạo, không có trí, cũng không có chứng đắc.

         Bởi không có chứng đắc, nên khi Bồ-đề-tát-đỏa nương theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tâm không bị chướng ngại. Bởi không bị chướng ngại, nên không sợ hãi, xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng, đạt tới Niết-bàn rốt ráo. Ba đời chư Phật, nương theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chứng A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Vậy phải nên biết rằng, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là linh chú đại thần, là linh chú đại minh, là linh chú vô thượng, là linh chú tuyệt đỉnh, có khả năng tiêu trừ,  mọi thứ khổ ách, chân thật chẳng hư dối.

          Do đó nói chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức nói chú rằng:

          Yết đế yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.[2]

 

Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh

          Bộ kinh này lược giảng làm hai phần: phần một nói về đề mục kinh, phần hai giải thích ý nghĩa văn kinh. Phần thứ nhất, tức là phần giải thích tổng quát liên hệ tới đề mục, gồm có hai chi: một chi nói về đề kinh, một chi nói về người phiên dịch.

 

Phần 1

Giải thích tổng quát

 

I. Ðề mục kinh.

 

          Có bảy lối lập đề (thất chủng lập đề) cho ba tạng và 12 bộ kinh do Phật thuyết giảng.

          1. Ðơn nhân lập đề. Sao là đơn nhân lập đề? Tỷ như kinh Phật Thuyết A-di-đà; Phật là một người, A-di-đà cũng là một người, đây gọi là đơn nhân (lấy tên một người) lập đề (đặt tên kinh).

          2. Ðơn pháp lập đề. Như kinh Niết Bàn, là chỉ cho tướng pháp. Danh từ Niết Bàn ám chỉ pháp nên được dùng cho tên kinh.

          3. Ðơn dụ lập đề. Ở đây chuyên lấy thí dụ làm đề mục, như kinh Phạm Võng. Chỉ có một tỷ dụ đơn độc, là thí dụ cho gì? Số là, nội dung kinh Phạm Võng thuyết về giới luật mà giới luật thì được ví như một màng lưới ("võng" nghĩa là lưới) treo trước điện của vua Ðại Phạm Thiên (Phạm tức Phạm thiên). Màng lưới này, coi như một vật trang trí, có hình ống tròn, khắp xung quanh là những lỗ thủng. Tại mỗi lỗ thủng của màng lưới có gắn một viên ngọc quý và trên mặt ngọc thì có lỗ xuyên vào. Ngọc quý phát ra ánh sáng xuyên qua các lỗ với nhau, do đó ánh sáng của viên ngọc này chiếu qua viên ngọc kia, ánh sáng viên ngọc kia phản chiếu lại viên ngọc này, cứ như vậy toàn bộ chiếu sáng lẫn nhau.

          Ánh sáng của bạn chiếu qua tôi, ánh sáng của tôi chiếu qua bạn, ánh sáng giao nhau mà không hề đối nghịch nhau. Cũng chẳng thể nói rằng, ánh sáng của bạn không được chiếu qua tôi, hoặc ánh sáng của tôi không thể chiếu qua bạn - không có chuyện như vậy.

Nói cách khác, giới luật cũng giống như các ánh sáng của các viên bảo ngọc quý chiếu sáng lẫn nhau. Nếu các vị tuân thủ điều giới này tức có một tia sáng phát ra, tuân thủ điều giới kia cũng lại có một tia sáng phát ra. Tất cả mỗi 10 điều giới trọng với mỗi 48 điều giới khinh, đều cũng sẽ phát ra các tia giới sáng, giống như ngọc quý trên màng lưới ở cung trời vua Phạm Thiên!

          Tại sao mỗi lỗ thủng lại gắn ngọc quý như vậy?  Màng lưới này vốn dụ cho giới của Bồ-tát. Ðây nói trước khi chúng ta thọ và trì giới Bồ Tát thì nó vốn là những lỗ thủng. Sao biết được, đó là lỗ thủng? Vì nó bị rỉ, rịn chảy ra, cũng gọi là “lậu”. Nếu các vị tuân thủ giới thì chỗ đó sẽ là viên ngọc quý chiếu sáng, còn phạm giới thì chỗ đó có lỗ thủng.

         Các tia sáng chiếu qua chiếu lại, lỗ lỗ tương thông, dụ cho Phật Pháp. Tâm của Phật, cùng với tâm của chúng sanh và của hàng Bồ-tát, phản ảnh qua lại với nhau. Phật sở dĩ thành Phật là do giữ giới tu hành. Bồ-tát cũng do giữ giới mới thành Phật được và chúng sanh nếu muốn thành Phật cũng phải từ chỗ giữ giới mà tu. Ðiều này biểu thị sự biến hóa vô cùng tận, do đó màng lưới được đưa ra làm thí dụ để đặt tên kinh, tức kinh Phạm Võng.

         Ba loại đề mục vừa kể có tính cách đơn độc, chỉ lấy một món để đặt tên kinh nên gọi là đơn tam.

          4. Nhân pháp lập đề. Thí dụ như kinh Văn Thù Vấn Bát-nhã, Văn-thù là người, Bát-nhã là pháp, là tướng của pháp. Lối này lấy tên người và tên pháp để làm đề mục kinh.

          5. Nhân dụ lập đề. Như kinh Như Lai Sư Tử Hống, Như-lai là người, sư-tử hống là một thí dụ cho Phật thuyết pháp ví như tiếng rống của loài sư-tử vì có câu nói: “Sư tử rống lên, muôn vật đều hãi sợ” (Sư tử nhất hống, bách thú giai cụ).

          6. Pháp dụ lập đề. Ðây là trường hợp của bộ Kinh này. “Bát-nhã Ba-la-mật-đa” là pháp, “tâm” là dụ, và lối này lấy tên pháp và dụ để làm đề mục kinh.

          Ba loại đề mục trên, gọi là phức tam, sao gọi phức tam? Phức là trùng phức, kép cũng là hai loại ghép lại với nhau, cũng có thể nói là trùng tam. 

          7. Nhân pháp dụ lập đề. Lối lập đề này gồm đầy đủ cả ba món, người, pháp và dụ, như kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm.

           “Ðại Phương Quảng” là pháp, “Phật” là người, “Hoa Nghiêm” là dụ; biểu thị lấy nhân hoa của vạn hạnh để trang nghiêm cái quả đức vô thượng. Ðại phương quảng là cái thể của pháp, còn Hoa Nghiêm biểu thị cái dụng. Nghĩa của Ðại Phương Quảng là rộng lớn, Phật đã tu pháp Ðại Phương Quảng này để thành Phật. Nhân hoa của vạn hạnh tức là lấy hoa làm nhân trong pháp tu lục độ vạn hạnh; quả đức vô thượng chỉ đức hạnh của quả vị Phật. Dùng vạn hạnh gieo nhân, coi như hoa để trang nghiêm đức hạnh Phật quả, một cái quả vô thượng.

          Trên đây đã giảng xong về bảy lối đặt tên kinh.

 

 

 

妙智方可達彼岸   真心自能契覺源   法喻立名超對待   空諸法相體絕言

宗趣原來無所得   力用驅除三障蠲   熟酥判作斯教義   摩訶逆轉般若船

 

Diệu trí phương khả đạt bỉ ngạn

Chân tâm tự năng khế giác nguyên                      

Pháp dụ lập danh siêu đối đãi                              

Không chư pháp tướng thể tuyệt ngôn

Tông thú nguyên lai vô sở đắc

Lực dụng khu trừ tam chướng quyên

Thục tô phán tác tư giáo nghĩa

Ma ha nghịch chuyển bát-nhã thuyền[3]

 

          Nay hãy dùng bài kệ tụng mà tôi đã sáng tác để giải thích tên kinh. Sau này cứ mỗi đoạn kinh văn cũng sẽ dùng 8 câu kệ tụng để thuyết giảng.

          Tám câu trên giảng nghĩa đề mục “Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa” chiếu theo nguyên tắc Ngũ Trùng Huyền Nghĩa.

         

1) Thích danh.

          Diệu trí phương khả đạt bỉ ngạn

          Diệu trí là gì? Bát-nhã tức là diệu trí. Ðáo bỉ ngạn là Ba-la-mật-đa. Cho nên quý vị dùng diệu trí bát-nhã mới có thể tới bờ bên kia.

         Chân tâm tự năng khế giác nguyên

         Chân tâm là chỉ cái chữ tâm này, cũng là chỉ Bát-nhã. Như đã có diệu trí huệ bát-nhã, tức có loại chân tâm này, thì tự nhiên sẽ khế hợp với nguồn giác. Khế hợp với nguồn giác là khế hợp với bổn giác của Phật, đắc được thể của bổn giác. Khế hợp hay tương hợp nghĩa là hợp lại thành một phiến.

Pháp dụ lập danh siêu đối đãi

        Ðề mục Bát-nhã Ba-la-mật-đa thuộc loại pháp dụ lập danh, tức là lấy tên của pháp và của dụ ghép lại để đặt tên kinh. Bát-nhã Ba-la-mật-đa là pháp, Tâm là dụ.

        Bát-nhã là gì? Bát-nhã có ba loại: văn tự bát-nhã, quán chiếu bát-nhã, hay thực tướng bát-nhã. Từ văn tự bát-nhã mà sanh ra quán chiếu bát-nhã, rồi từ quán chiếu bát-nhã mới có thể đưa tới chỗ khế hợp với bổn thể của thực tướng bát-nhã. Thực tướng bát-nhã gọi là trí huệ cứu cánh, cũng gọi là diệu trí huệ, cũng gọi là trí huệ triệt để.  Lại có thể nói là loại trí huệ triệt để này đưa hành giả về tới trí huệ “nhà”, hay cũng có thể nói là trí huệ của Phật.

        Cái trí huệ này còn được gọi là gì nữa? Là cái chân tâm. Chân tâm cũng là trí huệ, trí huệ cũng là chân tâm. Chữ Phạn “bát-nhã” phiên dịch ra tiếng Hán thành “chân tâm”. Kinh này là tâm của cái tâm, một cái tâm của trong 600 quyển kinh Ðại Bát-nhã. Nói cách khác, bộ kinh này lại cũng là tâm trong cái tâm nữa.

        Bát-nhã là tâm, tức tâm trong cái tâm, tâm trong tâm lại cũng là tâm. Vì lẽ này, kinh được mệnh danh là “Tâm Kinh”. Kinh này là tâm của bát-nhã (Bát-nhã Tâm Kinh), mà chính chữ bát-nhã là tâm, nên nó là tâm trong cái tâm. Cũng vì bát-nhaõ vốn phiên dịch thành một cái chân tâm, nên Kinh Ðại Bát-nhã có thể gọi là Kinh Ðại Chân Tâm chớ không phải là giả tâm. Chúng ta sẽ thấy Kinh giảng về sự thực dụng của diệu lý này.

        Bộ Tâm Kinh này là Bát-nhã tâm trong tâm. Tuy Tâm kinh này chỉ gồm vỏn vẹn có hai trăm sáu mươi chữ, nhưng trong Kinh Bát-nhã, nó được ví như cái tâm là cái chủ thể, cho nên mới nói nó là tâm của cái tâm. Nay là cho thêm vào một chữ tâm là tâm trong tâm, cho nên gọi là Tâm Kinh. Ðây chính là chân tâm trong chân tâm, do đó mới dùng một chữ Tâm này. Pháp này tức là Bát-nhã Ba La Mật Ða, là pháp đáo bỉ ngạn. “Tâm” tức là một thí dụ, Kinh lấy Tâm làm dụ, ngụ ý rằng Kinh được ví như trái tim, cái chủ thể trong thân của con người, không có bộ phận nào quan trọng hơn nó, nó là tuyệt đối, không có gì sánh kịp.

        Còn pháp - tên kinh thuộc loại “pháp dụ lập đề” - là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là pháp đưa đến bờ bên kia. Như vậy đây là một pháp tuyệt đối, vượt lên trên mọi sự đối đãi, đạt tới cảnh giới tuyệt đối vậy.        

 

2) Hiển thể.

          Không chư pháp tướng thể tuyệt ngôn

          Thể của bộ Kinh này là gì?  Thể của nó là không, không đối với mọi pháp tướng, và nghĩa của câu tụng “không chư pháp tướng” cũng tương đương với nghĩa của câu kinh “chư pháp không tướng”. Không tướng nghĩa là không có hình tướng. “Không chư pháp tướng” chính là thể của kinh này.

          Tuyệt ngôn nghĩa là không có gì để nói ra cả. Bởi vì nếu thể của nó là không đối với mọi tướng, thì cái gì cũng không có, đâu còn gì để nói nữa. Thể tuyệt ngôn là lìa tướng ngôn ngữ, lìa tâm duyên tướng, lìa tướng văn tự, lìa hết thảy các tướng, đó là nhất thiết pháp vậy.

     

3) Minh tông.

          Tông thú nguyên lai vô sở đắc

          Câu kệ thứ 5 định rõ tông. Vậy Kinh này lấy gì làm tông chỉ? Lấy lẽ vô sở đắc làm tông chỉ. Trong kinh có câu “vô trí diệc vô đắc”. Tông này hướng tới cái gì? Hướng tới vô sở đắc.

          Bây giờ ta hãy lấy chuyện thế gian để giảng Phật Pháp. Ví như một cá nhân - tức là cách nói thông thường về một người – cá nhân này gọi là cá nhân, cũng như nói bộ kinh này là kinh. Cá nhân đó tên là gì? Tên là Trương Tam hoặc là Lý Tứ, chẳng hạn, đó là thích danh, nói rõ về cái tên.

          Người đó nay đã có tên, vậy ông Trương Tam này như thế nào? Cao hay thấp? Da có trắng không? Người thì mập, hay ốm? Có hình thể như thế nào? Bẩm sanh ra có đầy đủ tai, mắt, mũi… không? Ðó là nghiêng cứu về thể, do đó có danh từ hiển thể.

          Sau là muốn minh tông. Minh Tông thì như thế nào? Như ông ta có dáng người rất cao, đại khái có thể làm các việc nặng nhọc. Ông ta là người có học vấn, có thể làm thư ký được. Ông ta có tông chỉ, xu hướng gì? Hồi trước ông ta làm nghề gì? Nay có thể làm được công việc chi? Ðó đều là minh tông.      

 

4) Luận dụng.

          Lực dụng khu trừ tam chướng quyên

Lực dụng ý nói về năng lực khả dụng, năng lực đó có thể dùng vào việc gì? Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể làm nên công trạng gì? Lực dụng của kinh chính là phá trừ ba chướng.

          Cái gì là ba chướng? Thứ nhất là báo chướng, thứ hai là nghiệp chướng và thứ ba là phiền não chướng.

          Báo chướng lại phân thành y báo và chánh báo. Chánh báo là chỉ chính cái thân này đương thọ báo, tức cái thân thể này của chúng ta. Y báo có nghĩa là nương tựa vào đó để sanh sống mà thọ báo, cũng như thức ăn, quần áo, nơi ở, v.v…

          Nói về chánh báo của người tức là nói đến cái thân thể này tốt hay xấu. Như có người bẩm sanh có được tướng mạo rất tuấn tú, đẹp đẽ vẹn toàn, khiến mọi người trông thấy đều ưa thích, ái kính, có thể nói người đó nổi bật, trội hơn người.

          Hoặc như người này thật có trí huệ, người kia rất có thiện căn. Ðây lại phân ra thành hai loại.  Như có người có trí huệ mà không có thiện căn, thì như thế nào? Ða số những hạng người này gốc từ yêu ma quỷ quái, sanh ra làm người, tỷ như số sơn tinh trên núi biến thành yêu quái, lại có ma rừng, ma núi (si), ma quỷ (mị) yêu tinh (võng, lưỡng), số quỷ thần này làm quỷ thần đã lâu năm, hơn nữa các loại lão yêu tinh ăn thịt người. Lão yêu tinh cũng chết đi lên làm người. Chúng sẽ có chút điểm thông minh so với người thường.  Hay các quỷ thần của loài cây rừng, gỗ đá, lâu ngày biến thành tinh. Chúng có thể ăn thịt người và sau khi chết sinh ra làm kiếp người, nên chúng vốn có ít nhiều trí thông minh. So với người ta chúng là hạng khá thông minh. Chỉ có hành động của chúng là không thông minh, vì chúng chuyên làm những chuyện hồ đồ, chuyên môn làm điều trái khuôn phép, những việc có hại cho người khác là chúng thích làm. Cho nên làm nhiễu loạn xã hội trật tự mà chỉ sợ thiên hạ không loạn. Loại này là có trí huệ mà không có thiện căn.

         Lại có người có thiện căn mà không có trí huệ. Người có thiện căn vì kiếp trước biết làm điều lành, nhưng lại không nghiên cứu kinh điển nên thành ngu si không có trí tuệ.

          Nói về chánh báo thì có thể kể như những người có tướng mạo đẹp đẽ, đã sống lâu lại được hưởng phú quý hay những người sanh ra xấu xí, thọ mạng ngắn ngủi, mới ít tuổi đã chết. Tất cả đều do tiền nhân hậu quả, tức tạo nhân kiếp trước nên sau này phải thọ quả báo.

         Y báo thuộc về những vấn đề ăn, mặc, chỗ cư trú, cũng do nhân quả chi phối. Kiếp trước gieo nhân lành, kiếp này nhận quả tốt; kiếp trước gieo nhân ác, kiếp này nhận quả xấu. Xem như vậy thì phàm làm gì chúng ta cũng phải cẩn thận, tránh tạo nhân ác thì kiếp sau sẽ không gặp quả báo xấu. Báo chướng là như vậy.

         Nghiệp chướng. Nghiệp là sự nghiệp, là công nghiệp. Bất luận là người xuất gia hay tại gia, ai cũng phải có một sự nghiệp gì và trong khi làm phận sự tất có lúc sẽ gặp nhiều vấn đề khó khăn, khiến cho buồn bực nẩy sanh, tạo thành những cảnh ngộ không vừa lòng. Loại này gọi là nghiệp chướng.

         Phiền não chướng. Chúng ta ai cũng có phiền não cả. Vậy chúng từ đâu tới? Chúng phát sanh từ tâm tham, tâm sân và tâm si. Trong lòng có phiền não là bởi lý do gì? Bởi tham mà không thỏa mãn được tham nên sanh phiền não. Bởi có tâm sân nên khi gặp điều không vừa ý thì sanh phiền não. Bởi ngu si, không biết rõ sự tình nên sanh phiền não.

         Tại sao các vị sanh phiền não? Bởi tâm mạn, một loại tính kiêu ngạo, khinh rẻ mọi người nên từ đó mà sanh phiền não. Bởi lý do gì nữa? Bởi có tâm nghi, gặp bất cứ sự việc gì cũng hoài nghi, nên sanh ra phiền não.

         Lại vì sao mà có phiền não? Bởi vì có tà kiến, do sự nhận thức không chân chánh mà sanh phiền não. Nếu như cái thấy và cái biết của quý vị là chân chánh, tức quý vị có trí huệ chân chánh, mọi sự việc đều được nhận thức rõ một cách minh bạch, trước sau đều sáng tỏ, thì lúc đó quý vị mới không có phiền não. Do đó phiền não đều do tham, sân, si, mạn nghi, tà kiến phát sanh ra.

         Bộ Tâm Kinh này có thể giúp ta phá trừ ba chướng: báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng. Làm sao phá trừ? Bởi kinh này có trí huệ chân chánh, có trí huệ diệu mầu, là tâm chân chánh như như bất động của chân tâm, do đó nó phá trừ được ba chướng. Nếu chúng ta hiểu thấu Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh, chúng ta mới có được trí huệ chân chánh, và phá được ba chướng kể trên.

       

5) Phán giáo tướng.

          Thục tô phán tác tư giáo nghĩa

          Chữ Hán “thục tô” nghĩa là váng sữa chín (butter, bơ). Chữ “thục tô” minh định giáo nghĩa của Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh. Thời “Thục tô” là thời thuyết pháp thứ tư của đức Phật, còn được gọi là thời “Bát-nhã”.

          Phật thuyết pháp được chia thành 5 thời và gồm 8 loại giáo lý (ngũ thời bát giáo). Ðây là cách phân định của Ðại sư Trí Giả thuộc tông Thiên Thai.

          Nay tôi căn cứ vào hai loại trí huệ “quyền” và “thật” để nói về 5 thời thuyết pháp:

          Thời Hoa Nghiêm (Avatamsaka). Phật nói đầu tiên là pháp này, trong khoảng thời gian 21 ngày, và nội dung gồm một quyền, một thật. Một loại thật pháp, một loại thật trí, một loại quyền trí. Sao nói là một loại thật trí, một loại quyền trí? Kinh Hoa Nghiêm giảng về ý nghĩa của pháp giới, có sự pháp giới, lý pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới. Tuy kinh này thuyết cho các vị Bồ-tát, nhưng ý nghĩa giáo lý gồm cả tính cách phương tiện quyền xảo cũng như tính cách thật trí, trí huệ chân thật của Phật pháp. Ðó là đặc tính của thời Hoa Nghiêm: một quyền, một thật.

         Thời A-hàm (Agama). Ðây là thời pháp thứ hai, duy quyền vô thật, chỉ có quyền pháp mà không thật pháp. Quyền giáo là dùng những phương cách khéo léo để dẫn dắt chúng sanh. Vào thời kỳ này chúng sanh có thể ví như trẻ nhỏ, chưa hiểu được Phật Pháp nên phải dùng đủ cách khéo léo khuyến dụ, để hóa độ chúng sanh. Do đó trong thời thứ hai chỉ có quyền pháp, không có thật pháp, không có thật trí.

         Thời Phương Ðẳng (Vaipulya). Ðây là thời pháp thứ ba. Giáo lý của thời Phương Ðẳng gồm ba phần quyền và một phần thật. Nói vậy là nghĩa gì? Số là vào thời thứ tư này cả 4 loại giáo là tạng giáo, thông giáo, biệt giáo và viên giáo đều được thuyết giảng. Có câu: “Ðàn thiên xích tiểu, thán đại bao viên”; đàn thiên là thiên lệch không đúng; xích tiểu là bài xích cái nhỏ, ý nói cái Tiểu thừa của anh cũng là sai rồi; thán đại là tán thán Ðại thừa; bao viên là khen tụng viên giáo. Sao gọi là Phương Ðẳng? Bởi cùng nói về 4 loại giáo lý (tứ giáo) đồng thời giảng đạo lý của bốn giáo, cho nên nói có ba loại quyền pháp, tức tạng, thông, biệt và một loại thực pháp tức là viên giáo.

          Thời Bát-nhã (Prajna). Ðây là thời pháp thứ tư, gồm hai loại quyền và một loại thật. Hai loại quyền là thông giáo và biệt giáo, một thật là viên giáo. 

          Thời Pháp Hoa Niết Bàn là duy thật vô quyền. Pháp ở thời này không còn tính cách quyền nữa, hoàn toàn là thực, nên chỉ có thực trí mà không có quyền trí, pháp có tính cách thực chớ không phải phương tiện quyền xảo.

          Năm thời luận bàn ở trên căn cứ vào ý nghĩa quyền và thật. Giảng kỹ lưỡng cả năm thời sẽ đòi hỏi nhiều thời gian, do đó mỗi lần giảng kinh thì giảng nhiều thêm một chút, quý vị nghe giảng nhiều một chút tức sẽ hiểu biết thêm một chút.

          Ma ha nghịch chuyển bát-nhã thuyền

          Trong tiếng Phạn, ma-ha có nghĩa là lớn; nghịch chuyển tức là quay ngược lại. Quay ngược cái gì? Quay ngược con thuyền bát-nhã. Chắc quý vị cho rằng nếu quay ngược thuyền thì không còn bát-nhã nữa, không phải vậy. Quay ngược đây là quay cái gì? Quay ngược cái ngu si sẽ có bát-nhã. Ví như cho con thuyền đi ngược giòng nước, cần phải tốn công sức, chớ không phải là điều dễ dàng. Dầu quý vị không phải trải qua thời gian của ba đại a-tăng-kỳ kiếp thì ít nhất cũng phải qua hết một đời, hai đời, ba đời v.v.. mới có thể đạt được trí huệ chân chánh này.

- “Ồ!” Quý vị có thể nói: “tu như vậy lâu quá, chúng tôi không tu nữa”.

Không tu cũng không ai ép buộc, ép buộc là không phải đạo. Cho nên đệ tử của tôi, ai thích đọa lạc thì cứ việc đọa lạc. Ai không muốn quay ngược thuyền bát-nhã, thì cứ tùy ý thuận theo giòng nước, trôi xuôi về hạ lưu, càng xuôi càng đi xa. Còn như quý vị muốn quay ngược thuyền, thì sẽ đi ngược giòng lên trên, còn như quý vị không muốn thì quý vị sẽ xuôi giòng đi xuống. Hãy coi thử! Quý vị hướng thượng lưu đi lên hay vẫn là xuôi giòng hạ lưu đi xuống.     

          “Bát-nhã Ba-la-mật-đa” là pháp, “tâm” là dụ, “kinh” là nói bộ kinh này. Tên kinh có thông danh và biệt danh. Thông danh thì gọi là “kinh”, tiếng gọi chung của tất cả các kinh, còn biệt danh là tên dùng để chỉ riêng một bộ kinh này, các kinh khác thì không có tên đó. Biệt danh của kinh này Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm, ngụ ý nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh là tâm trong cái tâm bát-nhã.       

          Kinh là gì? Kinh nghĩa là pháp kinh thường, không biến đổi, không cải sửa được. Một chữ không thể bỏ, một chữ không thể thêm, đó là một pháp kinh thường.

          Lại nữa, Kinh còn được hiểu như một “con đường”, con đường mà người tu bắt buộc phải đi qua. Quý vị có muốn tu không? Vậy quý vị phải đi theo đường này. Kinh cũng là đường mòn, quý vị phải bước chân vào, vì nếu quý vị không đi vào cỏ sẽ mọc, đường mòn sẽ thành hoang vu. Quý vị đi vào thì đường đi sẽ mỗi ngày một phẳng phiu, mỗi ngày một quang minh. Tại sao nói hoang vu? Tức bộ kinh này bị bỏ quên thành hoang phế, cũng có ngụ ý nói quý vị đã quên kinh. Ví dụ quý vị đã thuộc lòng kinh rồi, khỏi cần nhìn vào bổn cũng đọc được, nhưng nếu qua thời gian ba, năm tháng không tụng nữa, quý vị cũng sẽ quên kinh, chẳng khác gì con đường bị bỏ hoang vậy.

          Tụng niệm kinh mang lại lợi ích gì? Tụng kinh chẳng được lợi gì, mất nhiều thời gian, mất nhiều khí lực. Vậy chớ tụng hết bộ kinh này, từ đầu chí cuối, làm hao tổn khí lực, thời gian và tinh thần mà cũng chẳng thấy có lợi gì? Các vị cư sĩ ơi! Ðừng có nghĩ ngợi ngu si như vậy. Ðiều mà quý vị cho là lợi ích, chẳng phải là lợi ích chân thật. Phàm cái gì có hình tướng đều là hư dối. Có hình có tướng để các vị trông thấy thì chẳng phải điều lợi ích rồi.

         Vậy điều lợi ích không trông thấy được thì như thế nào? Như chúng ta tụng kinh được một lần, thì cũng một lần tự tánh của chúng ta được tẩy rửa. Ví dụ như tụng kinh Kim Cang, tụng xong một biến kinh, ý nghĩa kinh được hiểu thêm một phần, tụng hai biến thì hiểu thêm chút nữa, ba biến thì ý nghĩa lại càng thêm minh bạch. Càng tụng kinh thì trí huệ của chúng ta càng gia tăng, nhưng gia tăng bao nhiêu phần chúng ta đâu có thấy. Có chăng chỉ là một cảm giác được ở bên trong. Do đó tụng kinh có lợi như thế nào thì không thể trình bày ra hết được. 

         Vả lại, mỗi lần tụng niệm là mỗi lần bớt phiền não. Hãy nhớ đừng để vì tụng kinh mà lại sanh ra phiền não. Chúng ta không nên nói: “Anh tụng như vậy không được, quá mau, tôi theo không kịp”, hoặc giả bảo rằng: “Anh tụng quá chậm đi, làm tôi cứ phải chờ anh”, hoặc lại nói: “Giọng tụng của anh khó nghe, nghịch tai tôi qúa đi! Quý vị không nên dụng công phu trên các điểm này, huống chi mọi người đều là sơ cơ, không phải người nào cũng biết tụng. Dầu biết hay không biết tụng, mọi người đều cũng phải tụng chung với nhau, như vậy đó! Cùng nhau mà huân tu. Không nên đại chúng cùng ở chung với nhau rồi anh bắt lỗi tôi, tôi bắt lỗi anh, là điều ta không nên làm. Nếu thật sự có lỗi, chúng ta nhất định phải kiếm ra, bởi nếu không vậy, mỗi ngày lỗi càng tích tụ nhiều thêm tức tu hành sẽ không tương ưng với đạo.

          Cho nên tụng kinh, là sự trợ giúp đối với tự tánh. Trợ giúp cái gì? Tức chính là khai mở trí huệ. Tụng Kinh Kim Cang khai được trí huệ, tụng Tâm Kinh thì càng được khai mở trí huệ hơn. Cho nên, quý vị nói tụng kinh không có lợi ích gì, thật ra sự lợi ích của tụng kinh là lớn nhất. Quý vị không thấy nên mới là cái lợi ích thật sự, còn cái mà quý vị thấy được, đó hoàn toàn chỉ là lớp võ bên ngoài. Ðây là ý nghĩa của việc tụng kinh.

         Chữ “kinh” còn có bốn nghĩa khác nữa, đó là quán, nhiếp, thường, pháp.

         “Quán’ nghĩa là xuyên qua, ngụ ý rằng bao nhiêu nghĩa lý đều kết lại với nhau giống như lấy một cái dây xâu thành một chuỗi.

          “Nhiếp” là bắt lấy, tóm thâu lấy các căn cơ để hóa độ, vì kinh có thể nhiếp thâu mọi căn cơ, như tùy theo căn bệnh mà cho thuốc chữa trị. Nhiếp như thế nào?  Có phải tôi thường giảng về đá nam châm sao? Nó có đặc tính hút chất sắt. Ðặt đá nam châm ra xa mà nó cũng hút chất sắt lại gần. Kinh cũng giống như cục đá nam châm còn chúng sanh thì cứng và cang cường như là sắt, hay nổi nóng và có nhiều tật xấu, nhưng khi được nam châm của kinh nhiếp thâu, tính tình dần dần thành nhu nhuyễn, tật xấu sẽ không còn nữa. 

         “Thường” nghĩa là thường hằng không bao giờ thay đổi, vĩnh viễn như vậy là vô thủy vô chung, xưa cũng như nay, đều phải nhờ vào kinh điển để tu hành.

         “Pháp” là phương pháp, ý nói đây là phương pháp dùng để tu hành. Vào thời quá khứ, thời hiện tại, thời vị lai, thời nào cũng phải theo phương pháp đó. Có câu nói: Tam thế đồng tôn gọi là pháp, cổ kim bất biến gọi là thường.

         Kinh còn được coi như dây mực. Thợ mộc ngày xưa có một dụng cụ, bên trong là một cuộn dây tẩm mực mầu đen. Muốn vẽ một đường thẳng trên một mặt bằng nào đó, người ta chỉ cần kéo dài căng thẳng cuộn dây được tẩm sẵn mực đó rồi lấy ngón tay bật sợi dây xuống thì dây sẽ in lằn mực xuống thành một đường thẳng. Không giống như thời bây giờ người ta dùng thước kẻ và cây viết chì để thay thế. Tóm lại, kinh là quy củ, là mực thước. Chúng ta hiện nay nghiên cứu Bát-nhã thì phải theo quy củ của Bát-nhã, quý vị giữ quy củ của Bát-nhã tất sẽ có ngày khai mở trí huệ.

 

II. Người dịch.

         Trên là giảng sơ lược về đề của kinh. Bây giờ nói về người dịch. Chúng ta ngày nay hiểu bộ kinh này chính là nhờ vào công ơn của người đã phiên dịch. Nếu không, e rằng tới nay chúng ta cũng chưa thấy được kinh này, có khi còn chưa nghe đến tên kinh nữa. Thấy, nghe về bộ kinh này đều không có, vậy thì lấy đâu ra phương pháp nói trong kinh để nương theo mà tu hành? Cho nên sẽ không cách nào tìm ra đường lối tu hành. Do đó chúng ta phải hết lòng cảm tạ người phiên dịch. Từ ngày kinh được phiên dịch, rồi lưu truyền cho đến chúng ta ngày nay, trải qua nhiều đời, biết bao nhiêu người đã được dịch giả từ bi giáo hóa, cho nên công đức của người dịch kinh thật là không thể nghĩ bàn và vô cùng vĩ đại.

          Vậy ai đã phiên dịch bộ Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa này? Ðó là Ðường Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang. Ðường là triều đại nhà Ðường. Tam Tạng chỉ ba tạng: tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận. Tạng Kinh thì gồm có rất nhiều kinh, tạng Luật giảng về giới luật, tạng Luận giảng đạo lý của kinh điển.

          Danh từ Pháp sư có nghĩa là lấy Pháp làm thầy; lấy Pháp để bố thí cho người cũng gọi là Pháp sư. Còn như lấy Phật Pháp trong cả Ba tạng làm thầy thì gọi là Tam tạng Pháp sư; lấy Ba tạng kinh điển để giáo hóa chúng sanh cũng gọi là Tam tạng Pháp sư. Nay vị Pháp sư mà chúng ta nói ở đây, tức là ngài Huyền Trang, Ngài vừa lấy ba tạng kinh điển làm thầy, lại vừa đem ba tạng kinh điển để giáo hóa chúng sanh. Tức Ngài là vị kiêm đủ cả hai nghĩa nói trên.

         Huyền Trang là tên của pháp sư. Căn cơ của Ngài phi thường thâm hậu, vô cùng huyền diệu, có một cảnh giới không thể nghĩ bàn. Tại Phật giáo cận đại, có thể nói Ngài là một vị pháp sư vĩ đại. Tại sao chúng ta nói như vậy? Vào thời đi thỉnh kinh của Ngài, làm gì có phương tiện giao thông như  máy bay, xe lửa hay thuyền máy? Phương tiện giao thông duy nhất của ngài là ngựa, Ngài cỡi ngựa từ Tân Cương băng qua Trung Á để tới Ấn-độ. Lộ trình dài nhất, xa nhất và đầy gian khổ, có thể nói không ai dám mạo hiểm dấn thân như Ngài.

         Thời gian trước ngày du hành thỉnh kinh, là thời gian ngài Huyền Trang mỗi ngày tập luyện chạy bộ, từ sáng đến tối đều tập đi bộ. Vì ở chùa không có núi để tập leo trèo, Ngài phải lấy ghế và bàn chồng lên nhau, rồi hàng ngày tập nhảy từ ghế lên bàn, từ bàn này qua ghế kia, cứ như thế bò leo như người ta leo núi. Cũng do công phu khổ luyện như vậy, nên sau đó Ngài mới khắc phục được mọi hiểm nguy, trở ngại, đi như bay mà vượt qua bao nhiêu núi cao chót vót cùng những vách đá cheo leo ở vùng Trung Á để có ngày đặt chân tới đích tại Ấn-độ. Ngài đi qua đó 14 năm và thâu thập nhiều kinh điển để mang về Trung Quốc phiên dịch.      

          Ngài làm công tác phiên dịch kinh điển theo chiếu chỉ của nhà vua, nói cách khác là Ngài phụng chiếu dịch, dịch từ bản văn tiếng Phạn của Ấn-độ ra Hán văn. Nay có một số các vị cư sĩ ở đây biết tiếng Trung Hoa, lại thông hiểu tiếng Anh, tiếng Phạn, tiếng Ðức, biết khá nhiều ngôn ngữ như vậy, mà lại phát tâm dịch kinh điển ra tiếng Tây phương thì công đức thật không thể nào kể hết, bởi công đức ấy không phải chỉ giới hạn trong một đời mà còn biết bao nhiêu người Tây phương ở các đời sau đều được hưởng lợi lạc. Vì lẽ này mà tôi mong tất cả các vị hãy đua nhau học tiếng Trung Hoa, để mau mau làm công tác phiên dịch kinh điển ra tiếng Anh, làm một sự cống hiến cho người Tây phương đây.

          Thế giới ngày nay đương lúc hư hoại, và chỉ có Phật Pháp mới có cơ vãn hồi, giúp thế giới tránh khỏi ác kiếp. Nếu mọi người đều không hiểu Phật Pháp, tôi e rằng nó có thể đi tới giai đoạn diệt vong.  Giê-su có nói về ngày tận thế, và ngày đó sẽ không còn xa đâu! Nếu như kinh Phật được dịch ra Anh Văn, mọi người đều thông suốt Phật Pháp, cố gắng tìm hiểu không lười biếng, đều hướng về trước phát tâm tu đạo, thì ngày tận thế đó còn xa lắm lắm! Không biết là bao nhiêu đại kiếp nữa nó mới tới, hoặc giả ngày đó thiệt ra chẳng có. Tại sao vậy?  Bởi Phật Pháp chuyển đại pháp luân nên vầng thái dương bị kềm giữ lại. Thái dương không bị rớt xuống tức ngày mạt thế cuối - mạt nhật - sẽ không có.

         Chúng ta nên nhận thức mọi sự việc một cách linh hoạt, chớ không nên nghĩ một cách cứng ngắt như chết - không phải cứ nói tận thế là phải tận thế. Có thể có tận thế mà cũng có thể không có. Nếu như mọi người đều học Phật Pháp, tận thế sẽ không xảy ra, nếu không ai học Phật pháp thì tận thế sẽ tới. Sự việc rất linh động như vậy, không nên coi như khô cứng đơ, chết ngắt.

          Lấy một thí dụ: trước đây có tin đồn rằng vào tháng tư sẽ có động đất và thành phố San Francisco sẽ bị tai nạn động đất rồi sau đó bị nhận chìm xuống biển. Thỉnh thoảng người ta lại lưu truyền về tin đồn này, chẳng phải riêng trong năm nay (1969) mà mấy năm trước đã có tin đó rồi. Nhiều người có tiền đã dọn đi nơi khác ở vì họ sợ rủi thay có động đất, thành phố sẽ bị chôn vùi xuống đáy biển. Hồi năm ngoái tôi đã có dịp bảo mọi người rằng, chỉ cần chúng ta cố học Phật Pháp thì thành phố tuyệt đối sẽ không thể bị chìm, bởi tôi trú tại đây chưa đủ lâu. Thời gian tôi ở San Francisco chưa đủ nên thành phố không dời chuyển, bị nạn đó. Năm nay tôi xin nhắc lại nữa, các vị cứ yên tâm, chỉ cần quý vị thành tâm niệm chú Lăng-nghiêm và học Phật Pháp thì tôi xin bảo đảm rằng thành phố sẽ không bị chìm, tôi đã nói qua từ lâu rồi. Bởi lý do gì mà cho đến nay, thành phố này vẫn chưa hề hấn gì? Ðâu chẳng phải là ở bên trong đã  âm thầm có sự cảm ứng! Các vị thành tâm niệm chú Lăng-nghiêm và học Phật Pháp, vậy là đã có Thiên Long Bát Bộ ủng hộ cho đạo tràng này, cho nên không có chuyện gì xảy ra được.

          Vấn đề tận thế cũng giống như vậy: tận thế biến thành không tận thế, huống chi là thành phố San Francisco. Thành phố này không dọn đi đâu cả, dù cho nó có muốn hay không. Cũng như chúng ta muốn dọn đi nơi khác, nhưng vì chưa kiếm được nơi nào thích hợp nên chưa đi. San Francisco chưa kiếm được chỗ khác thích đáng nên nó sẽ không đi.


 

Phần 2

Biệt Giải Văn Nghĩa

 

Quán Tự Tại Bồ-tát

 (Bồ-tát Quán Tự Tại)

 

                              迴光返照觀自在    覺諸有情即菩薩

                  如如不動心君泰    了了常明主人公

                  六種神通渾閒事    八方風雨更無驚

                  卷之則退藏於密    放之則彌六合中

                  Hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại

                             Giác chư hữu tình tức Bồ-tát

                             Như như bất động tâm quân thái

                             Liễu liễu thường minh chủ nhân công

                             Lục chủng thần thông hỗn nhàn sự

                             Bát phương phong vũ cánh vô kinh

                             Quyển chi tắc thoái tàng ư mật

                             Phóng chi tắc di lục giáp trung

 

          Bồ-tát có danh hiệu là Quán Tự Tại.  “Quán” nghĩa là quán tưởng; “tự tại” là chỉ về một trạng thái vô cùng sung sướng, không có ưu sầu, không bị điều gì chướng ngại. Nếu không có gì chướng ngại cả thì sự quán tưởng sẽ thành tự tại, còn như có sự gì chướng ngại thì quán tưởng không thể tự tại được.

          Hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại. Nếu chúng ta biết hồi quang phản chiếu, thì thành quán tự tại. Không hồi quang phản chiếu tức không quán tự  tại. Vậy hồi quang phản chiếu là gì? Gặp bất cứ cảnh huống nào chúng ta nên tự hỏi mình trước.  Giả sử có người đối xử không tốt với ta, ta liền tự đặt câu hỏi là tại sao họ đối xử tệ với mình như vậy. Rồi tự mình nên nghĩ lại: “Ồ! Thật ra là ta có lỗi”. Làm như vậy gọi là “hồi quang phản chiếu”.

          Lấy ví dụ có người đối xử xấu với ta, nếu lúc đó ta chẳng tự hỏi ta có làm gì xấu không mà đã vội nổi cơn thịnh nộ, đánh đập đối phương đến bể đầu chảy máu. Làm như vậy sẽ chẳng được lợi gì, mà chỉ là hành động không lý trí. Nay  quý vị quay lại tự nhìn mình tức sẽ có lý trí, do đó mới có câu: “Hồi quang phản chiếu quán tự tại”.

         Quý vị hãy quay lại tự xét mình - hồi quang phản chiếu - xem thử ta có tự tại hay không?  Tự tại là gì? “Tự” là tự mình, “tại” là ngay tại chỗ này. Tôi xin giảng cho quý vị nghe từng chữ một.  Tại chỗ này là sao?  Tức quý vị có vọng tưởng hay không? Quý vị  đương có mặt ở đây hay không có mặt ở đây? Nói cách khác, quý vị có vọng tưởng hay không? Nếu có vọng tưởng thì quý vị không tự tại. Còn không có vọng tưởng tức là tự tại. Vấn đề ngay chỗ này, quý vị thấy đơn giản lắm không! Hồi quang phản chiếu là quay lại tự quán sát mình, xem thử mình có vọng tưởng hay không. Có vọng tưởng thì không tự tại, còn không vọng tưởng tức là tự tại, thật kỳ diệu thay!

          Giác chư hữu tình tức Tát-đỏa. Thế nào gọi là Bồ-tát? Bồ-tát dịch là “giác hữu tình”. Chữ “giác” () ở đây nghĩa là bảo người ta sáng tỏ. Viết chữ này mà lại thêm bộ “thủ” () bên cạnh, thì không phải là chữ giác nữa, mà là chữ “giảo” (), chữ giảo của hồ giảo(胡攪) tức là quấy rầy.  Giảo nghĩa là quấy rối, làm cho người khác rối loạn, ý nghĩa hoàn toàn ngược lại. Ðó không còn là giác hữu tình mà khiến cho hữu tình ngu si.

          “Giác ngộ hữu tình” nghĩa là làm cho hết thảy loại hữu tình được sáng  tỏ. Hữu tình là gì? Hữu tình là các chúng sanh, chớ không phải hữu tình là chỉ tình ái, các vị chớ có lầm lẫn. Giác ngộ hữu tình tức coi tình ái là không mới là Tát-đỏa đó là Bồ-tát. Có như vậy mới có thể đạt được trạng thái nói trong câu kệ sau: 

         Như như bất động tâm quân thái. “Như như bất động” nghĩa là không có pháp nào mà không như vậy, hết thảy mọi pháp đều là như pháp, từ đó vấn đề  phiền não đều chẳng còn. Như như bất động tức định lực, và lúc đó trong tâm hoàn toàn an bình  (tâm quân thái nhiên) – Không phải trong kinh Pháp Hoa có câu “kỳ tâm thái nhiên”sao? Thái nhiên chính là nói về trạng thái thật an lạc và an bình trong tâm.

          Liễu liễu thường minh chủ nhân công. “Liễu liễu” là hiểu rốt ráo, “thường minh” là thường thường sáng tỏ. Chúng ta nên có trí huệ bát-nhã liễu liễu thường minh. Chúng ta phải hiểu thấu đáo và sáng tỏ trí huệ bát nhã. Nếu không hiểu tức không sáng, không sáng tức không hiểu, cho nên đã hiểu còn phải hiểu thêm, đã sáng còn phải sáng thêm, phải thấu đáo sáng suốt, sáng suốt thấu đáo. Ðiều này chúng ta phải hiểu cho minh bạch, không thể hồ đồ, ngu si.

         Biết rõ chắc chắn điều đó không đúng mà vẫn làm, như  vậy chẳng phải là nghĩa đã ngu si lại thêm ngu si sao? Ngu si gấp bội. Cái đó là vì chúng ta không làm chủ mình, không phải là ông chủ (chủ nhân công).

         Ví dụ ta nói rằng: “Tôi đây là chủ, tôi bảo người khác làm việc gì cũng được, tôi không bị ai chi phối mà tôi chi phối người ta. Việc gì tôi cũng không làm, tôi bảo người ta làm thay tôi.  Ngược lại tôi thì không giúp họ làm việc của họ đâu.”  Nói như vậy cũng không phải nghĩa của “chủ nhân công”.

         Tâm quân thái, chủ nhân công có nghĩa không hồ đồ, không làm chuyện hồ đồ. Làm việc một cách sáng suốt mới gọi là ông chủ, vì chủ nhân thì phải có trí huệ chân chánh, phải tự làm chủ mình, không làm những điều xằng bậy, tà tri, tà kiến. Hành động xằng bậy chính là ngu si.

         Lục chủng thần thông hỗn nhàn sự. Nếu chúng ta có thể tự làm chủ mình được, tự nhiên chúng ta sẽ có sáu loại thần thông. Ðó là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông và lậu tận thông. Tại sao chúng ta không có các thần thông này? Bởi lẽ chúng ta không tự chủ được, mỗi khi gặp ngoại cảnh chúng ta liền bị ngoại cảnh lôi kéo. Kiến dị tư thiên, thấy mới nới cũ. Chúng ta bị người khác chuyển mà không có khả năng chuyển ngược lại ngoại cảnh. Trong mọi cảnh huống mà chúng ta không bị dao động thì lúc đó mới gọi là chuyển cảnh. Khỏi nói lúc tỉnh táo, ngay cả trong giấc mơ, mà cũng không bị cảnh chuyển, như vậy mới gọi là “chủ nhân công”.

                   Làm chủ nhân rồi tức sẽ có trí huệ chân chánh và sáu loại thần thông kể trên đều cũng chỉ là chuyện bình thường thôi. “Hỗn nhàn sự” nghĩa là rất phổ biến, và bình thường, không có gì lạ cả.                           

          Bát phương phong vũ cánh vô kinh. Bốn chữ “bát phương phong vũ” tức là hai câu cuối “Bát phong xuy bất động, Ðoan tọa tử kim liên”của thi hào Tô Ðông Pha (1037-1101)

稽首天中天,毫光照大千;

八風吹不動,端坐紫金蓮。

                                Khể thủ thiên trung thiên

                                Hào quang chiếu đại thiên

                                Bát phong xuy bất động

             Ðoan tọa tử kim liên

              Tạm dịch:              

            Khấu đầu cúi lạy chư thiên

                               Hào quang rạng chiếu đại thiên

                               Tám gió thổi qua chẳng động

                               Ngồi ngay trên sen vàng tía.

          Khi Tô Ðông Pha làm xong bài thơ này, ông gửi tới thiền sư Phật Ấn (1011-1086). Sư bèn phê vào bên cạnh bốn chữ: “Ðánh rắm! Ðánh rắm!”  Nhà thơ thấy vậy không bỏ qua được mà phát hỏa lên. Lúc đó, không phải chỉ là xì hơi, mà ông còn xì lửa nữa, cơ hồ muốn thiêu luôn cả thiền sư Phật Ấn. Ông lập tức qua sông Dương Tử  -ông ở bên phía nam và thiền sư Phật Ấn ở phía Bắc của sông Dương Tử - kiếm cho được thiền sư Phật Ấn, lớn tiếng mắng rằng: “Bài thơ khai ngộ này tôi vừa viết ra, sao ông lại bảo là “đánh rắm” mà chửi rủa người ta như vậy?”  Thiền sư đáp: “Tôi chửi rủa người nào? Ông bảo rằng, tám trận gió thổi ông cũng chẳng động, nay tôi chỉ để hai chữ đánh rắm mà tôi đã thổi tuốt cả ông qua sông Dương Tử này. Vậy đừng nói tới tám gió làm gì, nay  chỉ cần hai cái xì hơi của tôi là cuốn hốt ông từ xa tới nơi đây.

          Tô Ðông Pha nghĩ lại: “Ðúng rồi! Ta làm sao  tám gió chẳng động được khi chỉ có bốn chữ mà đã làm cho ta sôi cơn giận lên rồi. A! Thật là không phải! Ta phải cúi đầu đảnh lễ cầu sám hối thôi!”

         Bát phong là tám thứ gió gồm: khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, được, mất.

Thí dụ về khen, đó là những lời xưng tán như: “Ông là một cư sĩ giỏi đấy! Không những ông hiểu biết Phật Pháp mà còn có trí huệ, thông minh, lại biện tài hay nữa!” Ðó là những lời khen.

          Chê thì đại khái như sau: “Ông học Phật pháp gì thế? Hiện là thời đại khoa học mà ông còn học những cái cổ xưa của thế kỷ 18 đó, thật chẳng có ý nghĩa chi cả.” Chê là như vậy đó. Nghe như vậy quý vị bèn nghĩ lại: “Ồ! Ðúng đấy! Trong thời đại khoa học này mà sao còn học Phật Pháp, nhân nhân quả quả, vô nhân vô ngã gì đó thì làm sao thành tựu thời đại khoa học được chớ.  Không được rồi, rõ ràng tôi vẫn là tôi, người vẫn là người mà!” Nghĩ như vậy tức lại bị tám ngọn gió lay động.

          Khổ cũng là một thứ gió.

          Lạc là khoái lạc. Ăn ngon, mặc đẹp, chỗ ở tốt, thấy vui sướng cả ngày. Quý vị cho rằng được như vậy thì hay quá phải không? Ðó cũng là một loại gió đấy.

         Lợi nghĩa là lợi ích. Ví dụ, cho rằng mình đã tu hành khắc khổ, không hề khởi vọng tưởng, do đó người ta đã cúng dường cả triệu đồng, giúp ta xây được chùa nên trong tâm vui sướng vô cùng. Như vậy chúng ta cũng đã bị gió lay rồi.

          Suy nghĩa là suy bại. Như có người phá hoại chúng ta. Ðại khái họ nói rằng vị sư đó không tốt, việc xấu gì cũng làm cả, chớ có tin vị sư đó, hãy tin ở tôi là được rồi.

         Ðược nghĩa là có đắc được, tới được.        

         Mất tức là mất đi, không còn.

          Tất cả những món trên đều coi như là gió. Câu kệ tụng “Bát phương phong vũ cánh vô kinh”, hay gió mưa từ tám phương đưa lại chẳng kinh sợ, cũng cùng một nghĩa với “bát phong xuy bất động” vậy.

          Quyển chi tắc thoái tàng ư mật. Nếu như muốn cuốn xếp quyển kinh này lại thì chúng ta phải cất tại một nơi nào thanh tịnh, chớ không thể để cẩu thả. Ðối với kinh chúng ta phải có sự cung kính.

          Phóng chi tắc di lục giáp trung. Nếu muốn mở kinh ra, trí huệ bát nhã sẽ sung mãn, tràn đầy lục hợp, sáu phương hòa hợp. Lục giáp cùng nghĩa với lục hợp, là chỉ bốn phương: đông, tây, nam, bắc, thêm vào thượng và hạ, ngụ ý cho khắp tất cả mọi nơi. Quý vị thấy pháp môn Bát-nhã có kỳ diệu lắm không!

   

Hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời

(Khi thực hành thâm sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa)

                             行道修身莫外尋   自性般若深密因

                  白浪沖霄黑波止     涅槃彼岸任運登

                時兮時兮勿錯過     慎之慎之取天真 

                杳杳冥冥通消息     恍恍忽忽見本尊

     Hành đạo tu thân mạc ngoại tầm

                            Tự tánh Bát-nhã thâm mật nhân

                            Bạch lãng xung tiêu hắc ba chỉ

                            Niết-bàn bỉ ngạn nhiệm vận đăng

                            Thời hề thời hề vật thố quá

                            Thận chi thận chi thủ thiên chân

                            Diểu diểu minh minh thông tiêu tức

                            Hoảng hoảng hốt hốt kiến bổn tôn.

      

   Hành là tu hành; thâm là đối với cạn nên gọi thâm sâu; bát-nhã là trí huệ; ba-la-mật-đa là tới bờ bên kia; thời là thời gian đó.

          Câu kinh này,  ý nói rằng Bồ-tát Quán Tự Tại tu hành Bát-nhã thâm sâu, chớ không phải tu hành Bát-nhã nông cạn. Vậy thế nào là Bát-nhã thâm sâu? Ðó là trí huệ diệu mầu.  Còn sao là Bát-nhã nông cạn?  Ðó là pháp Tiểu thừa gồm Tứ đế và Thập nhị nhân duyên.

          Chỉ có trí huệ diệu mầu mới thật sự tới được bờ bên kia, không có trí huệ kỳ diệu thì không tới được. Ai là người tới được vậy? Ðó là ngài Bồ-tát Quán Tự Tại. Ở đây đức Phật Thích Ca đưa ra trường hợp của Bồ-tát Quán Tự Tại,  một vị đại Bồ-tát tu hành pháp Bát-nhã thâm sâu, và ngài đã tới được bờ bên kia, cho nên kinh nói “hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời”, tức là nói lúc Ngài tu hành pháp thâm sâu đó.

          Hàng Nhị thừa[4] chỉ tu thiển (cạn cợt) Bát-nhã nên không biết tới thâm (sâu xa) Bát-nhã. Tu thiển Bát-nhã là tu tích pháp không. Chữ “tích” có nghĩa là phân tích, phân tích một cách tỉ mỉ, phân tích các sắc pháp và tâm pháp. Sắc pháp là gì? Tức là những gì có hình tướng, có thể trông thấy được. Tâm pháp là sao? Tâm pháp tức không thấy được. Những gì hữu hình thuộc về sắc pháp, vô hình thuộc về tâm pháp. Cái gì có hình? Tức là những gì có hình tướng, thuộc pháp hữu vi đều là loại hữu hình. Còn tâm pháp thì vô hình vô tướng, chỉ có tri giác. Những gì có tri giác và vô hình tướng gọi là tâm pháp, còn có hình tướng mà vô  tri giác thì gọi là sắc pháp.

Thí dụ như ngũ uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì yếu tố sắc thuộc sắc pháp, còn bốn yếu tố kia, đều không có hình tướng nên thuộc về tâm pháp.

          Theo trong Kinh thì khi Ðức Bồ-tát Quán Thế Âm thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, Ngài coi năm uẩn đều không. Ngài nói rằng: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy”. Tức là Ngài đã coi cả sắc pháp và tâm pháp đều là không cả.

          Nói đến không ở trên, Bát-nhã là nói về “không”. Thật ra, “không” có rất nhiều loại, ở đây chúng ta chỉ bàn đơn giản về năm thứ không như sau.

1.     Ngoan hư không. Danh từ ngoan này là rất ngoan bì (nghịch ngợm) chỉ cái không trống rỗng, vô tri vô thức không có tánh tri giác gì, tức như hư không mà người bình đều biết, đều thấy hư không này. Mắt thấy đó nhưng không có tánh tri giác nên gọi là ngoan hư không. Kẻ phàm phu thường chấp vào thứ ngoan hư không này. Sao gọi là hư không? Cái gì cũng không có cả. Nhưng đó có phải là chân không không? Không phải à! Loại ngoan hư không này là loạn mà người phàm phu thường bị dính mắt.  

2.     Ðoạn diệt không. Ðây là thứ không mà ngoại đạo thường chấp trước.  Họ không biết ý nghĩa của hư không nên họ cho rằng sau khi người ta chết thì chẳng còn gì hết, lúc đó là đoạn diệt, cũng là không luôn. Cho nên họ có cái đoạn diệt không này.

3.     Tích pháp không quán. Ðây là pháp tu của hàng Nhị thừa. Tích pháp là phân tích sắc là sắc, tâm là tâm.  Họ chuyên phân tích các pháp, thứ nào là tâm và thứ nào là sắc. Ðối với họ thì sắc là sắc, tâm là tâm, họ chưa hiểu rằng cả hai thứ cũng đều là không cả, do đó họ chưa thể đạt tới và chứng được diệu lý Chân không. Cho nên họ chỉ biết dừng lại ở hóa thành[5] mà không biết dấn bước thêm hướng tới các quả vị Bồ-tát. “Hóa thành” chẳng qua chỉ là cảnh giới hư vọng để dụ người tu, chớ chưa phải là tới đích thật sự. Bởi họ tu “tích pháp không quán” như vậy nên gọi là tu thiển Bát-nhã. Bát-nhã cạn chớ không phải bát-nhã sâu, nên không có được là trí huệ thâm sâu.

         Hàng Nhị thừa tu hành bát-nhã chỉ giải quyết được phân đoạn sanh tử, mà chưa giải quyết được biến dịch sanh tử. Hai ý niệm này có ý nghĩa như thế nào?

         Sao gọi là phân đoạn sanh tử? Như chúng ta ai cũng có một thân thể, bạn có phần thân của bạn, tôi có phần thân của tôi, mỗi người có phần riêng của mình. Ðời người từ lúc sanh đến lúc chết đều có một đoạn gọi là đoạn. Ðây là có một phần, một đoạn.  Ðó là nghĩa của phần đoạn. Phần đoạn còn có thể được hiểu như thân bạn là một đoạn cao lớn năm thước, bạn kia cao sáu thước, người nữa thì cao 7 thước.  Mỗi người đều có mỗi chiều đoạn cao. 

          Tu pháp Nhị thừa chứng sơ quả, nhị quả, tam quả, đến tứ quả thì giải quyết được phân đoạn sanh tử này, nhưng lại chưa dứt được biến dịch sanh tử.

          Biến dịch sanh tử mới là gốc của phần đoạn sanh tử. Biến là biến hóa, dịch là dễ dàng, tức là biến hóa, là giao dịch, mậu dịch (trao đổi). Biến dịch sanh tử là căn bổn của phân đoạn sanh tử. Sao nói thế? Biến dịch sanh tử  ý nói về các vọng tưởng đổi thay nối tiếp. Niệm trước vừa dứt thì niệm sau tới ngay, niệm sau dứt thì niệm sau nữa tới, cứ như thế sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, đó là nghĩa của biến dịch sanh tử. Một niệm diệt là chết, một niệm sanh tức sống lại, cũng tức là vọng tưởng của chúng ta. Chứng được quả thứ tư là A-la-hán cũng chưa dứt được biến dịch sanh tử, chỉ có hàng Bồ-tát của Ðại thừa mới giải quyết được vấn đề này. Biến dịch sanh tử đây cũng là cái sanh tử căn bản của chúng ta. Tại sao chúng ta có sanh tử?  Sở dĩ có sanh tử là do vọng tưởng. Vậy vọng tưởng là từ đâu ra? Tất cả đều bắt nguồn từ vô minh, vì chính vô minh là nơi phát khởi mọi loại vọng tưởng.

          4. Thể pháp không quán. Hàng Duyên giác tu thể pháp không quán này.

          5. Diệu hữu không quán. Các vị Bồ-tát tu Diệu hữu chân quán, chân không, diệu hữu. 

          Kinh nói: “Quán Thế Âm Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không.” Ngài soi thấy năm uẩn đều không. Ðây chính là thành tích Ngài đạt được do công phu tu hành Bát-nhã. Nay tôi lấy 8 câu kệ tụng mà tôi đặt để lược giảng như sau:

           Hành đạo tu thân mạc ngoại tầm. Quý vị muốn tu đạo, tu thân ư? Quý vị phải quay vào trong tự tánh của mình chớ không thể hướng ra ngoài tìm kiếm.

          Tự tánh Bát-nhã thâm mật nhân. Ngay trong tự tánh Bát-nhã có một hạt giống thâm mật, mật nhân[6] thâm sâu.

          Bạch lãng xung tiêu hắc ba chỉ. Lúc quý vị tu hành, bạch lãng, sóng bạc này là trí huệ, giống như có một loại sóng màu trắng của nước cuốn chảy.  Sóng đen là phiền não. Hết sóng đen rồi, trí huệ của quý vị mới lên cao được. Thâm sâu cũng nghĩa là cao. Hành  thâm bát-nhã ba la mật đa là làm sao thấy ra là thâm sâu cỡ nào? Do ở trên cao nhìn xuống chỗ thấp và không thấy gì hết,  cho nên là thâm bát nhã. Sóng đen ngừng tức phiền não cũng dứt luôn.

Bạch lãng là sóng bạc. Ðầu dòng nước cuốn là những lượn sóng bạc bốc cao. Xung tiêu (vọt lên mây xanh) dụ cho trí huệ đối với người tu hành, còn hắc ba (sóng đen) là phiền não. Khi phiền não chấm dứt, trí huệ vọt lên cao. Ðó nghĩa là Bồ-tát thực hành Bát-nhã thâm sâu, nên trí huệ như sóng bạc cao vút, nhìn xuống thấy sâu thăm thẳm.

          Niết-bàn bỉ ngạn nhiệm vận đăng. Quý vị có trí huệ tự nhiên sẽ chứng bỉ ngạn (bờ bên kia) Niết-bàn. Nhiệm vận đăng nghĩa là rất dễ dàng, rất tự nhiên là đạt bỉ ngạn. Tùy ý bước lên, hay nói cách khác chứng Niết-bàn một cách dễ dàng, không cần dùng tới công sức.

          Thời hề thời hề vật thố quá. Thời giờ đối với người tu rất là quý báu, do đó chúng ta không nên để thời gian qua đi một cách uổng phí. Cho nên nói thời hề thời hề vật thố quá, thời thời chớ để trôi qua. Là lúc nào vậy? Tức là lúc hành thâm bát-nhã ba la mật đa, không nên để phí thời gian này.

          Thận chi thận chi thủ thiên chân. Chúng ta phải rất thận trọng, đừng bỏ uổng thời gian này, vì đó là thời gian dụng công để đạt được Bát-nhã thâm sâu. Cũng là thiên chân, loại đạo lý thiên chân.

Phải giữ chắc lấy ý nghĩa thiên chân[7] này.

          Diểu diểu minh minh thông tiêu tức. Diểu diểu minh minh nghĩa là mờ mịt. Trong sự mờ mịt, có tin tức tới[8] (thông tiêu tức). Ý nói mờ mịt, vì có nhìn mà chẳng trông thấy gì, có lắng tai mà không nghe được chi.

          Hoảng hoảng hốt hốt kiến bổn tôn. Trong trạng thái hoảng hốt mơ màng đó thì tin tức tới. Quý vị nhận ra, thấy nó thật, nhưng nó tựa hồ chẳng có hình tướng gì; quý vị bảo nó chẳng hình tướng, nhưng tựa hồ như quý vị có thấy nó. Thấy được bổn tôn đó chính là tự tánh của mình.

   

Chiếu kiến ngũ uẩn giai không.

(Soi thấy năm uẩn đều không)

三光普照透三才  一歸合處復一來   見色即空受納是   妄想遷流行業排

識乃了別五陰具   鏡花水月絕塵埃   空而不空明大用   見猶未見樂快哉

 

                               Tam quang phổ chiếu thấu tam tài

                               Nhất quy hợp xứ phục nhất lai

                               Kiến sắc tức không thọ nạp thị

                               Vọng tưởng thiên lưu hành nghiệp bài

                               Thức nãi liễu biệt ngũ ấm cụ

                               Kính hoa thủy nguyệt tuyệt trần ai

                               Không nhi bất không minh đại dụng

                               Kiến do vị kiến lạc khoái tai.

 

          Tam quang phổ chiếu thấu tam tài. “Tam quang” là nói ba thứ nguồn sáng hay ánh sáng, tức mặt trời, mặt trăng và tinh tú. “Phổ chiếu” là phổ biến, chiếu khắp. “Tam  tài” là chỉ trời, đất và người.                      

          Tam quang ở đây cũng là nghĩa ánh sáng của ba loại Bát nhã, của văn tự Bát-nhã, quán chiếu Bát-nhã thật tướng Bát-nhã. Ánh sáng của thật tướng Bát-nhã chính là ánh sáng của thâm Bát-nhã, mà đức Quán Tự Tại “soi thấy năm uẩn đều không”. Cả ba loại ánh sáng chiếu thấu tam tài, ngụ ý nói chiếu khắp cả trời đất.

          Nhất quy hợp xứ phục nhất lai. “Nhất quy hợp xứ” nghĩa là tự tánh của người. “Một” là chỉ tự tánh, “hợp xứ” là nói nơi chốn của tự tánh. Nguyên là vạn pháp quy một, một quy hợp xứ. Ðại sư Thần Quang đã từng nói qua mấy câu kệ của như sau:

           萬法歸一一歸合   神光不明趕達摩;

       熊耳山前跪九載   祗求一點躲閻羅。

           Vạn pháp quy nhất, nhất quy hợp

           Thần Quang bất minh cản Ðạt-ma

                               Hùng Nhĩ sơn tiền quỵ cửu tải

                              Chỉ cầu nhất điểm đóa Diêm-la

Tạm dịch:

                              Muôn pháp quay về một, một về nơi hợp

                             Thần Quang chẳng tỏ đuổi theo Ðạt-ma
          Chín năm quỳ gối núi Hùng Nhĩ

                              Chỉ cầu một pháp trốn Diêm Vương.

 

          “Một” đây là chỗ muôn pháp quay về, dụ cho Tâm, và Tâm cũng chính là tự tánh. Chữ “hợp” (unity) trong câu “một về nơi hợp” là nghĩa tương hợp, tương hợp với Phật tánh. Quý vị hợp cùng Phật tánh.

         Khi đã hợp cùng Phật tánh, một lại tới nữa rồi từ đó nẩy sanh một thứ diệu dụng. Diệu dụng đây là nghĩa quý vị được thành Phật đạo gọi là “phục nhất lai”nghĩa là một lại tới nữa, chỉ quý vị đó, là Phật đây.

          Kiến sắc tức không thọ nạp thị. “Kiến sắc tức không” ý nói khi nhìn sắc mà thấy nó vốn không, như Kinh đã nói “sắc tức thị không”. Tại sao có thể nói như vậy?  

          Phàm phu chúng ta quen chấp vào sắc, chấp vào cái tướng trạng tổng quát về sắc này, mà chúng ta gọi là sắc thân, tức tấm thân thể này. Bảo rằng thân thể của chúng ta là không ư? Rõ ràng nó có sờ sờ ra đó! Nó biết mặc quần áo, biết ăn uống, biết ngủ nghỉ, làm sao bảo nó là không được? Thật ra, tới khi nào chúng ta hiểu rõ bởi đâu mà nó có, lúc đó chúng ta sẽ có thể bảo nó là không.

         Ở trên tôi đã từng giảng cái chân không của tích pháp, tức dùng cách phân tích như vậy để hiểu về cái không. Thân thể chúng ta, gọi bằng danh từ sắc thân là gọi cái tướng chung của nó (tổng tướng), còn khi tách biệt ra thì nó có đất, nước, gió, lửa, là những biệt tướng của sắc. Vậy thân thể này gồm các  yếu tố đất, nước, gió, lửa, hòa hợp mà thành. Tỷ như trong thân có da, thịt, gân, xương, những thứ này thuộc về đất, hay địa đại; có nước miếng, nước tiểu, phân, nước, mồ hôi, đây là nước, hay thủy đại; hơi ấm trong thân là chất lửa, hay hỏa đại; hơi thở ra vào là chất gió, hay phong đại. Bốn đại điều hòa với nhau tạo nên thân thể, bốn đại phân cách thì thân này bị diệt, tức là không còn nữa. Lúc đó chất lửa sẽ trở về với hỏa đại, gió về với phong đại, nước về với thủy đại, và đất về với địa đại, mỗi thứ hoàn lại nơi chốn của chúng, chẳng còn gì nữa, kết cuộc là không.

          Ða số phàm phu chúng ta chấp thân thể này là “ta”, đây là sự sai lầm, thân này chẳng phải là “ta” sao?  Thân thể không phải là ta, vậy cái gì mới là “ta”?  Cái gì có thể chi phối thân thể này, để có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm giác, biết, có tri giác, cái đó mới là ta. Như vậy thân thể này phải gọi là gì? Chúng ta chỉ có thể bảo rằng nó là của ta, “thân thể của tôi”, chớ không thể nói thân thể này là tôi. Vậy thân thể giống như gì? Hãy ví thân thể này tựa như  một căn nhà mà ta đương trú ngụ, ta không thể nói nhà này là ta. Nếu quý vị nói như vậy, thiên hạ sẽ cười quý vị đến rụng hết răng đấy. Nhưng nếu quý vị bảo “thân thể này là ta”, thì không ai cười quý vị cả, bởi vì lâu nay mọi người đều quen nhìn nhận một cách không minh bạch như vậy, chẳng khác gì đồng hóa ta với căn nhà mà ta đương trú ngụ vậy. Ở trong thân thể có sự thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm giác, biết, đó chính là Phật tánh, Phật tánh này mới là chính Ta. Còn như thân thể này, bất quá chỉ là do nhân duyên hòa hợp mà thành, nhân duyên hết hòa hợp thì nó bị phân tán, do đó quý vị không thể bảo thân thể là ta, chỉ có thể nói nó là của ta, ta có thể không cần nó, ta có thể đổi cái thân khác, ta có cái quyền lợi này tùy theo ý muốn của ta, cái hay là ở chỗ đó mà quý vị không biết đó thôi!  Vì quý vị trú ngụ ở trong nhà, không biết sự việc xảy ra ở bên ngoài, cho nên cứ cho nhà đó là chính quý vị. Chúng ta phải bỏ điều chấp trước căn nhà là mình.

          Khi nói về sắc và chúng ta hãy phân tích thử sẽ thấy sắc cũng là không, rồi từ chỗ không mà biến thành sắc pháp. Làm sao để biến đây? Ðất, nước, gió, lửa khi hòa hợp lại mà tạo thành một thân thể. Có người nói: Thượng Ðế tạo ra con người, vậy dùng gì để làm ra đây? Cũng phải lấy đất, nước, gió, lửa mà tạo nên thôi. Chúng ta dùng đất, nước, gió, lửa thì cũng tạo nên được thân người. Ai cũng làm được. Một chút đất, một ít lửa, một chút nước có thể tạo thành người. Nhân duyên đủ, hòa hợp lại tức thành thân người; nhân duyên hết, mọi thứ phân tán, tức là hết.

           Nếu ta hiểu minh bạch sắc tức là không thì chúng ta sẽ không chấp cho thân này là ta được. Nó chỉ là một sở hữu, chỉ lệ thuộc về ta. Nhưng đây quý vị không nên dính mắc vào nó. Nếu có thái độ cho “thân thể là cái của tôi” thì quý vị sẽ muốn lo cho nó thôi, rồi khiến tâm quý vị làm nô lệ cho nó. Tâm đây là một cái tánh giác tri sáng suốt biết rằng cái thân thể là một sắc  pháp nên không thật. Vì vậy mà không tham luyến vào nó. Phá tiêu sắc uẩn đi tức sắc uẩn sẽ trở thành không.                

“Thọ nạp thị”, nghĩa là thọ uẩn (uẩn thứ hai trong năm uẩn) cũng giống như thế, nói rõ hơn là thọ uẩn cũng như sắc uẩn, đều là không.

         Vọng tưởng thiên lưu hành nghiệp bài. “Vọng tưởng” là chỉ tưởng uẩn, “thiên lưu”(trôi đi)  chỉ hành uẩn. “Hành nghiệp bài” là hành uẩn cũng hợp với vọng tưởng mà bày ra thứ tự với nhau, nói nghiệp quả bày ra.

         Thức nãi liễu biệt ngũ ấm cụ. “Liễu biệt” là thức uẩn, có khả năng phân biệt ngũ ấm đầy đủ. Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

         Kính hoa thủy nguyệt tuyệt trần ai. “Kính hoa thủy nguyệt” nghĩa là hoa trong gương, trăng đáy nước. Ngũ ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như hoa trong gương hay hình mặt trăng dưới nước. “Tuyệt trần ai” là không bị bụi bặm bám vào. Cả câu này ngụ ý tất cả ngũ ấm đều là không.

         Không nhi bất không minh đại dụng. Chưa thấy được năm uẩn là không, chừng đó chúng ta vẫn còn nhiều phiền não, nhiều vọng tưởng. Trái lại, một khi đã sáng tỏ, thì thức sẽ biến thành trí và ngay khi đó xuất hiện cái đại dụng mầu nhiệm. “Không mà chẳng không, đại dụng sáng tỏ” là ý nghĩa của câu tụng trên. 

            Kiến do vị kiến lạc khoái tai. Từ chỗ Chân không mà nẩy sanh Diệu hữu là cái đại dụng mầu nhiệm. Kiến do vị kiến tức thấy đó mà giống như là không thấy và hoàn toàn không bị cảnh giới chi phối thì mới đạt tới một niềm an lạc chân chánh nên nói lạc khoái tai!       

 

Ðộ nhất thiết khổ ách.

(Ngài vượt thoát mọi khổ ách)

                             渡過苦海出輪迴   雨霽天晴月正輝  

乾元道體人中聖   不壞金軀世上稀

脫生何須千年藥    證滅何須萬劫期

二死永亡五住盡    逍遙法界任東西

 

Ðộ quá khổ hải xuất luân hồi

                            Vũ tế thiên tình nguyệt chính huy

                            Càn nguyên đạo thể nhân trung thánh

Bất hoại kim khu thế thượng hy

Thoát sanh hà tu thiên niên dược

Chứng diệt khởi đãi vạn kiếp kỳ

Nhị tử vĩnh vong ngũ trú tận

Tiêu dao pháp giới nhiệm đông tây

         

          Kinh văn nói “độ nhất thiết khổ ách” nghĩa là vượt hết mọi khổ ách. Chữ “độ” là vượt thoát; “nhất thiết” là bao hàm hết thảy; “khổ ách”. Khổ đã là một cảm giác khó chịu, lại thêm một cái tai “ách” nữa, thì càng đau khổ hơn.

          “Ðộ” là độ thoát, vậy độ thoát là nghĩa thế nào? Ðó là nghĩa lìa khổ mà được vui, cũng là nghĩa giải thoát. Nhưng, sao không nói “giải thoát” hết thảy khổ ách” mà lại nói độ thoát? Ðây là theo câu chiếu kiến ngũ uẩn giai không như trên mà ra. Chữ độ này có ý nghĩa tu hành. Tuy là chiếu kiến ngũ uẩn giai không rồi thì vẫn phải tu hành. Bởi có tu mới vượt qua được hết thảy các khổ ách. Nếu như không tu, chỉ soi thấy chúng là không, thì cái thấy đó có ích lợi gì? Vì vậy khi chiếu thấy không rồi và quý vị biết là không, cảm giác cũng là không nhưng vẫn cần phải thực hành nữa. Cho nên có câu nói “lý tuy đốn ngộ, sự phải tiệm tu” là nghĩa này. Chúng ta hiểu thấu đáo lý, rồi tu mới độ thoát được khổ ách.

          Nếu chỉ hiểu được “không” mà chẳng tu hành thì cái không đó cũng là vô dụng cái có cũng vô dụng. Do đó chúng ta phải thực sự hạ thủ công phu mới mong độ thoát khổ ách, chớ không phải chỉ tu thiền bằng miệng lưỡi, bảo rằng ta được khai ngộ nọ kia, rồi chứng A-nậu-đa-la tam miệu-tam-bồ-đề v.v.. .  Khai ngộ ư? Khai ngộ bằng cách nào?  Chứng đắc A-nậu-đa-la tam miệu-tam-bồ-đề nó ra sao? Kỳ thực, nói ra thì dễ, làm được mới khó. Nói ra được là pháp, thực hành được là đạo. Cho nên quý vị nói được thì phải thực hành cho được, quý vị hiểu được “không” rồi lại vẫn còn phải thực tu, mượn cái không mà tu cái có, mượn Chân không mà tu Diệu hữu.

         “Ðộ nhất thiết khổ ách” nghĩa là không phải một thứ khổ ách, mà là hết thảy mọi khổ ách bao gồm bên trong; mọi khổ sở tức nói ba khổ, tám khổ, vô lượng khổ.

         Ba khổ gồm: khổ khổ, hoại khổ, hành khổ, và còn được gọi là ba thọ, tức khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Cũng là thọ khổ, thọ lạc, thọ bất khổ, bất lạc. Sao gọi là thọ? Thọ nghĩa là tiếp thọ, cảm thọ. Quý vị cảm thọ cái khổ, cảm thọ cái vui, cảm thọ cái chẳng khổ chẳng vui. “Khổ khổ” tức là khổ thọ. “Hoại khổ” là lạc thọ. Quý vị đừng nghĩ rằng vui (lạc) thì không có khổ, bởi vì vui cũng sẽ bị tàn hoại, khi hoại thì có cái khổ của sự tàn hoại. Không khổ không vui thì khá đấy. “Bất khổ bất lạc” gọi là hành khổ tức cảm thấy không vui thích gì, không có chi đáng kể.

         Tám khổ thì gồm có khổ của sanh, già, bệnh, chết, của ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thịnh.

         Làm người ai mà chẳng phải sanh ra? Sanh thì phải chịu khổ về sanh. Ai mà chẳng già? Có người nói rằng nếu đứa nhỏ chưa đến tuổi già đã chết thì sao. Nó chưa đến tuổi già đúng là đứa nhỏ không tri giác gì.  Tuy nó không già nhưng nó vẫn chịu khổ về bệnh, chịu khổ về chết, tức có thể nói là nó cũng chịu khổ cả về già. Tại sao nói nó có cái già khổ? Cái ngày nó chết chứng tỏ nó đã già đi. Nếu nó không già thì sao lại chết? Ta có thể nói là trước khi chết đứa nhỏ đã trở thành già rồi chịu khổ của già, mặc dù mạng sống nó chưa thành  thục, trưởng thành. Chẳng qua thọ mạng của nó ngắn ngủi, nhưng tới lúc chết  nó đã phải trải qua cái khổ của sự già. Cho nên nó cũng không tránh khỏi sự già khổ.

         Nói tới bệnh khổ chắc không ai dám bảo rằng có bệnh mà không khổ. Có bệnh thì phải đau khổ vô cùng. Dù quý vị đã được khai ngộ rồi, lúc sanh bệnh vẫn là một cái khổ.  

         Tỷ dụ như Ðức Phật Thích-ca lãnh quả báo trong sự tích cây thương (gươm) và ăn lúa ngựa.  Quý vị nói là không có già khổ, bịnh khổ phải không?  Vậy thì tại sao Phật Thích Ca lại bị các quả báo trên?  Số là trong một kiếp xa xưa, lúc Ngài là một đứa nhỏ sống tại một địa phương đương bị nạn đói kém. Gặp lúc dân chúng kéo một con cá lớn từ dưới biển lên bờ để làm thịt ăn. Trước khi làm thịt cá, đứa nhỏ, tức tiền kiếp của Phật Thích-ca, cầm một cây gậy lớn đập mấy cái vào đầu con cá. Sau này, tu thành Phật, thỉnh thoảng Ngài vẫn bị đau ở trên đầu, y như có một cây thương đập vào đầu vậy. Ðó là sự tích “kim thương”.

         Còn quả báo về đồ lúa ngựa cũng bắt nguồn từ nguyên nhân trong một kiếp xưa, Ngài đã nói lầm lỡ một câu. Ngài bảo một người tu hành rằng, y không tu đúng  khổ hạnh, vì nếu thật sự tu khổ hạnh thì y phải ăn những đồ thực phẩm của loài ngựa. Sau này, lúc đã thành Phật, nhân khi Ngài đi tới một thành thị, rồi ở đấy kiết hạ an cư, nhưng quốc vương nơi đó không cúng dường, mà chỉ cho Ngài và các Tỳ-kheo lúa dành cho ngựa. Ðiều này chứng tỏ nhân xưa đã tạo thành nghiệp, và tất nhiên có ngày sẽ chịu quả báo.

         Sau khi chịu khổ từ sanh, già và bịnh là tới chết. Chết, là điều chẳng ai thích cả. Tại sao vậy? Vì chết có cái khổ.

         Ngoài ra còn những cái khổ của ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thịnh, bao nhiêu là khổ, gọi chung là các thứ khổ. Nay nếu chúng ta tu hành thì chúng ta có thể miễn trừ ba khổ, tám khổ, vô lượng khổ, hết thảy mọi thứ khổ ách.

          Tôi có bài kệ tụng sau, nay đọc cho các vị nghe.  

          Ðộ quá khổ hải xuất luân hồi. Gọi chung hết thảy mọi khổ ách là bể khổ (khổ hải). Muốn vượt thoát các khổ ách, ắt phải thoát khỏi sáu nẻo trong vòng luân hồi. Sáu nẻo đó là địa ngục, quỷ đói, súc sanh, người, a-tu-la và trời.  

          Vũ tế thiên tình nguyệt chính huy. Thoát được ra khỏi sáu nẻo thì lúc đó là lúc mưa tạnh (vũ tế), trời trong ráo (thiên tình). “Nguyệt chính huy” là nghĩa mặt trăng ở giữa bầu trời chiếu sáng, ý nói, năm uẩn đều không, cho nên trời không có mây và không có mưa. Ðây là cảnh trời quang mây tạnh, vừng trăng vằng vặc sáng soi, muôn dặm bát ngát không một gợn mây. Ðạt được cảnh giới này tức phát sanh trí huệ chân chánh, soi chiếu cùng khắp cả.

Bởi vì quý vị đã độ thoát hết mọi khổ ách mới có thể nói:

          Càn nguyên đạo thể nhân trung thánh. Chứng được Sơ quả rồi thì sắc thân là thuần dương, do đó tụng kệ dùng chữ “càn nguyên” vì theo kinh Dịch hai chữ này biểu tượng của thể dương. “Ðạo thể” là thể của đạo tu hành. “Nhân trung thánh” là bậc thánh trong loài người.

          Bất hoại kim khu thế thượng hy. Khi chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn thì hành giả đã đoạn trừ được tám mươi tám phẩm kiến hoặc. Tấm thân đã biến thành vàng ròng chẳng thể hư hoại (kim khu bất hoại), trên đời coi như là hy hữu vậy. 

          Thoát sanh hà tu thiên niên dược. Năm xưa, Tần Thủy Hoàng muốn đến đảo Bồng Lai, nơi tiên ở để cầu thuốc trường sanh, hầu thoát cảnh sanh tử. Nay quý vị đâu cần phải đi kiếm thuốc tiên để mong sống mãi không già (thiên niên dược), mà chỉ cần độ thoát hết thảy khổ ách là làm chủ được sanh tử, lúc đó sống hay chết đều theo ý, hoàn toàn tự do, Diêm Vương cũng không có quyền quản lý tới, cũng giống như Tổ sư Bồ-đề Ðạt-ma vậy.

          Chứng diệt khởi đãi vạn kiếp kỳ. “Chứng diệt” là chứng Niết-bàn. Trong pháp Tứ đế gồm khổ, tập, diệt, đạo. Nếu chứng được “diệt” tức là thành đạo và đạt được Vô dư Niết bàn. “Khởi đãi vạn kiếp kỳ” dịch nghĩa là há phải đợi thời gian cả trăm ngàn vạn kiếp! Rất mau là chứng đắc loại Niết-bàn Vô dư này.

         Nhị tử vĩnh vong ngũ trú tận. Nếu như chứng được tới trình độ thoát mọi khổ ách, vượt khỏi vòng luân hồi, thân thể biến thành kim cang bất hoại, thì lúc đó “nhị tử” cũng giải quyết xong. Thế nào gọi là nhị tử? Hai lần chết ư? Không phải! Mà là hai thứ chết, phân đoạn sanh tửbiến dịch sanh tử, gọi tắt là nhị tử. Khi chứng quả A-la-hán thì mới giải thoát khỏi phân đoạn sanh tử, còn biến dịch sanh tử thì chỉ vượt được khi chứng quả vị Bồ-tát.

          Hiện là Bồ-tát Quán Tự Tại đã chứng đắc quả Bồ-tát nên Ngài đã hoàn toàn thoát khỏi biến dịch sanh tử. Trong câu kệ “nhị tử vĩnh vong”, chữ “vong” không phải là nghĩa tử vong. Sách Ðại Học có câu: “Nhi kim vong hỹ”. Chữ “vong” này đọc là “vô”. Chúng ta nay đọc cách nào cũng được, miễn là phải hiểu rằng cả hai loại “tử” đều “vong”, đều không còn nữa.

          “Ngũ trú tận” nói về năm loại an trú trong phiền não. Thứ nhất là kiến trú phiền não, vốn là kiến ái trú; nhì là ái dục trú; ba là sắc ái trú; bốn là vô sắc ái truù; năm là vô minh ái trú. Do những loại ái trú này mà sanh ra chấp trước, rồi bởi chấp trước mà biến thành năm loại phiền não. Ðức Quán Thế Âm đã vượt thoát năm loại phiền não, từ đó Ngài mới theo được như câu kệ sau:  

          Tiêu dao pháp giới nhiệm đông tây. “Tiêu dao” nghĩa là tự tại, tự tại cũng nghĩa là tiêu dao. Tiêu dao cũng là nghĩa tự do, tự do là nghĩa khoái lạc cho nên nói rất khoái lạc. Tình trạng khoái lạc đó nó như thế nào? Ðó là tùy ý du hành, tùy tiện đi ngao du khắp chốn. Nhiệm đông tây, mặc sức đi đông đi tây (nhiệm đông tây). Quý vị muốn dạo chơi thế giới Cực Lạc, thì  quý vị cứ việc tới; muốn thăm thế giới Lưu Ly nơi Ðông phương, cũng không có gì ngăn cản. Quý vị lại muốn dạo cảnh Ta-bà, cũng chẳng thành vấn đề, chẳng cần phải xin chiếu khán ở lãnh sự quán nào, hay phải theo một thủ tục gì phiền hà, muốn đi là đi. Như vậy gọi là “tiêu dao pháp giới”. Pháp giới không phải chỉ có phương Ðông hay Tây, mà cả các phương Nam, Bắc, tứ duy, thượng hạ, tóm lại là gồm trọn mười phương. Quý vị tới đâu cũng được ở đó hoan nghinh. Không có vấn đề quý vị muốn tới mà nơi đó không nghênh đón quý vị hay không cho quý vị nhập cảnh. Quý vị muốn đi đâu cũng được. Tiêu dao pháp giới nhiệm đông tây, quý vị có thấy rằng, mặc ý ngao du như vậy chẳng phải là thoải mái lắm hay sao? Vô cùng tự tại! Vô cùng tiêu dao! Tự do, bình đẳng, một pháp giới đầy đủ tính cách bình đẳng chân chánh.

          Nếu thanh toán xong nhị tử, ngũ trú, tự nhiên sẽ đạt tới cảnh giới tự do, một sự tự do chân chánh, một sự vui thú chân chánh, một sự bình đẳng chân chánh, một sự tiêu dao chân chánh!

 

Xá-lợi- tử

(Xá-lợi-tử)

                             舍利子是堅固徵。譯作鶖鷺母儀型

                  戒定圓明珠光現  行解相應體玲瓏

                  大智云何因愚表  善辯已在母腹生

                  人皆具此真實智   取諸曹溪寶林峰

          Xá-lợi tử thị kiên cố trưng

Dịch tác thu lộ mẫu nghi hình

Giới định viên minh châu quang hiện

Hành giải tương ưng thể linh lung

Ðại trí vân hà nhân ngu biểu

Thiện biện dĩ tại mẫu phúc sanh

Nhân giai cụ thử chân thực trí

Thủ chư Tào Khê Bảo Lâm phong.        

     

          Xá-lợi tử thị kiên cố trưng. Xá-lợi tử cũng là Xá-lợi-phất. “Xá-lợi” (Shari) là tiếng Phạn; “tử” cũng là từ tiếng Phạn “Phất”(putra) mà dịch ra. “Xá-lợi tử” hàm ý nghĩa kiên cố. Cái gì kiên cố? Trí huệ kiên cố. Cho nên, tên Xá-lợi Phất là kiên cố, tức trí huệ của Ngài kiên cố. Riêng đặt cái tên đó đã nói lên ý nghĩa kiên cố (kiên cố trưng).

          Dịch tác thu lộ mẫu nghi hình. Chữ Phạn “xá-lợi” dịch nghĩa thành thu lộ, là một loài chim lớn ở biển (pelican genus). Loại này bay rất cao, có cặp mắt ví như kính viễn vọng, nhìn xa thấy rõ. Dưới biển đàn cá bơi qua lại như thế nào, ở trên cao chúng đều trông thấy cả, rồi như một hỏa tiễn, chúng lao xuống biển bắt cá lên ăn, mắt nó sáng thấy hết một cách rõ ràng. Cho nên Xá-lợi là tên  của chim Thu-lộ.

          Theo truyền thống tại Ấn-độ, người ta thường lấy tên cha ghép vào để đặt tên cho con, cũng có khi lấy tên mẹ ghép vào, có khi cả tên cha và tên mẹ ghép chung. Ðặt tên “Xá-lợi-tử” vì bà mẹ có tên là Xá-lợi và “tử” nghĩa là con - con bà Xá-lợi. Tức y theo khuôn phép tên của mẹ Ngài mà đặt tên Ngài như vậy.

          Giới định viên minh châu quang hiện. Trong những kiếp quá khứ, nhiều đời Ngài Xá-lợi-tử đã tu định, tu huệ, tu giới. Ngài tu giới viên mãn, tu định viên mãn, tu huệ viên mãn, mọi thứ đều sáng tỏ, tròn đầy (viên minh), tựa như viên ngọc phóng quang sáng chói (châu quang hiện).

          Hành giải tương ưng thể linh lung. Ngài vừa tu hành vừa học đạo (hành giải tương ưng) thành thử trí huệ của Ngài thật rộng lớn quảng đại. “Linh lung” là nghĩa thân thể của ngài trong suốt tựa như lưu ly.

          Ðại trí chi hà nhân ngu biểu. Sao gọi là đại trí huệ? Tức do người ngu si biểu hiện ra. Nhưng họ không giống loại người ngu si bình thường. Kẻ ngu si   thường làm chuyện điên đảo, như nói ra thì rõ ràng là hay ho lắm, nhưng khi làm thì thành sai trái. Khi hướng về sai trái mà làm, đó gọi là ngu si. Còn bậc trí huệ thì không mê mờ, không thể đã biết là sai mà cố phạm, tức không điên đảo như kẻ ngu si nên gọi đại trí huệ.

          Thiện biện dĩ tại mẫu phúc sanh. Chắc quý vị hãy còn nhớ lúc xưa, khi giảng kinh Lăng-nghiêm tôi đã từng kể chuyện này nhiều lần. Số là bà mẹ và ông cậu của Xá-lợi-tử thường tranh biện với nhau, và lần nào bà mẹ cũng thua ông cậu. Sau này tới kỳ bà mang thai Tôn giả Xá-lợi-tử thì sự việc ngược lại, mỗi lần tranh biện là mỗi lần ông cậu chịu thua, không đủ lý lẽ để biện luận với bà mẹ của Ngài Xá-lợi-tử. Bởi vậy ông cậu mới đi kiếm thầy ngoại đạo để học nghị luận. Ðến khi trở về nhà thì Ngài đã theo Phật xuất gia. Do vì, khi trong bào thai mà Ngài Xá-lợi-phất đã có thể giúp mẹ biện luận thắng  được ông cậu, do đó kệ tụng mới  nói “thiện biện dĩ tại mẫu phúc sanh” dịch nghĩa là “biện tài đã giỏi khi còn trong bụng mẹ”.

            Nhân giai cụ thử chân thật trí. Loại trí huệ rộng lớn chẳng phải riêng gì Tôn giả Xá-lợi-phất mới có mà ai ai cũng có loại trí huệ chân thật này. Chỉ có điều là không ai dùng nó mà cơ hồ như quên nó luôn. Nếu như  mọi người đều sử dụng loại trí huệ này thì ai ai cũng có được loại trí huệ này cả.

          Thủ chư Tào Khê Bảo Lâm phong. Cái trí huệ chân thực này ở tại chỗ nào? Tại Tào-khê. Tào-khê ở đâu vậy? Tại chùa Nam Hoa, huyện Mã Bá, tỉnh Quảng-đông, nước Trung Hoa. Xa dữ vậy! Tôi làm sao đi tới đó được chớ?  Chùa Nam Hoa ở núi Bảo Lâm là đạo tràng của Lục Tổ, đường đi xa diệu vợi, không có cách rồi! Mọi người có thể nghĩ  như vậy. Ðược lắm! Thực vậy, chúng ta cũng khỏi cần đi đâu xa, mỗi người đều có sẵn núi Bảo Lâm và chùa Nam Hoa này ở ngay trong chúng ta rồi, không phải đi tìm đâu cho xa. Tự quý vị đã có loại trí huệ này, tự bổn thể quý vị đã có sẵn Tào Khê Bảo Lâm Phong, thì quý vị còn phải chạy đi đâu tìm kiếm nữa? Trí huệ này ở ngay trong quý vị thì làm sao mà tìm đây? Quý vị chỉ cần buông bỏ ngay tâm điên đảo, tâm vọng tưởng, tự dụng công tham thiền, ngồi thiền là có thể đắc được trí huệ. Ðó tức là Tào Khê Bảo Lâm Phong, ngồi xuống tham thiền, chỗ đó cũng giống như  ở núi Bảo Lâm của Tào Khê vậy.

 

Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc.       

(Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc).

色不異空有若無   空不異色體用殊 

色即是空真源徹   空即是色妄流枯

山河大地唯識現   夢幻泡影如是乎

慎勿外求持中道   放下染緣即來如

                                Sắc bất dị không hữu nhược vô

                                Không bất dị sắc thể dụng thù

                                Sắc tức thị không chân nguyên triệt

                                Không tức thị sắc vọng lưu khô

                                Sơn hà đại địa duy thức hiện

                                Mộng huyễn bào ảnh như thị hồ

                                Thận vật ngoại cầu trì Trung đạo

                                Phóng hạ nhiễm duyên tức lai Như

                                     

        Sắc bất dị không hữu nhược vô. “Sắc” là những gì có hình tướng, “không” tức là không hình tướng, Vậy tại sao Kinh nói: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc”? Ðây nói ra một nghĩa lý triệt để là một chân lý cứu cánh.

         Tất cả mọi thứ như sông núi, đất đai, nhà cửa, phòng ốc v.v.. đều là sắc. Sắc ở đâu? Sắc thì trụ vào trong hư không. Vậy hư không ở đâu? Hư không ở trong sắc. Sắc và không có thể nói là bất nhị, không phải là hai. Sắc bất dị không, tức không phải hai thứ. Không bất thị sắc là không và sắc cũng chẳng phải hai.  Không này bao trùm sắc, sắc này cũng bao trùm cái không; trông bề mặt cơ hồ như có hai thứ, thực tế vốn chỉ là một thứ thôi.

        Lấy cái bàn làm ví dụ. Mang cái bàn đặt ở chỗ này, khoảng không gian nó chiếm sẽ không còn nữa. Mang bàn đi nơi khác, khoảng không gian đó lại hiện ra. Thì chỗ đó là không rồi. Nói như vậy thì lúc không cất cái bàn đi nơi khác, khoảng không đó có hiện hữu không? Cũng có hiện hữu. Cái hư không vẫn có duy có điều nó bị sắc, tức cái bàn chiếm mất mà thôi. Nay, chỗ hư không đó có sắc chăng? Chỗ hư không cũng là gốc của sắc.

         “Sắc tức thị không”, chúng ta lấy sắc phân tích tức biến thành không.  Là như sao? Thân thể chúng ta thuộc sắc pháp, tâm chúng ta thuộc không pháp. Tâm pháp là không pháp, mà đạt được lý  Chân không thì chính là tâm. Còn thân thể thì tất nhiên là sắc pháp, do bốn đại là đất, nước, gió, lửa họp lại mà tạo nên. Nếu nay tách chúng ra, thì mỗi thứ đều trở về nơi chốn của chúng, tức là nói lúc mạng chung, bốn đại sẽ phân ly, lửa về đại lửa, gió trở về đại gió, nước trở về với đại thủy, đất trở về với đại địa, và mỗi thứ hoàn trở lại gốc của nó. Vậy là sắc không còn, sắc tức là không. Tuy bây giờ có cái sắc tướng, nhưng tương lai sẽ biến ra không, đó là ngụ ý sắc chẳng khác không, có như không có, như đã nói trong câu kệ tụng “sắc bất dị không hữu nhược vô”.

          Không bất dị sắc thể dụng thù. Không chẳng khác sắc, nhưng phải phân biệt làcó theå, có dụng (thể dụng thù).Không” là thể không, sắc là dụng của “không”. Thể dụng tuy là hai, nhưng gốc là một.

         Sắc tức thị không chân nguyên triệt. Nếu như quý vị biết sắc nguyên là chân không, cái đầu nguồn của cái chân thật này thì quý vị đã đạt tới nơi và quý vị cũng hiểu rõ một cách triệt để luôn.

          Không tức thị sắc vọng lưu khô. “Vọng lưu” là giòng vọng tưởng. Nếu quý vị hiểu tường tận “không chính là sắc” thì quý vị chẳng còn vọng tưởng, tại vì cái suối nguồn của mọi vọng tưởng đã khô kiệt rồi.

          Lại nói “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc”, đây có thể nói là một cảnh giới mà quý vị thể nghiệm được qua sự tu tập.

         Sắc cũng có thể hiểu là sắc đẹp, một loại thường nhắc tới trong chuyện tình trai gái thế gian trong tiếng Hoa. Nếu muốn chân chánh đạt được cảnh giới tu đạo trên thì sự vui sướng cũng giống như sự vui sướng đạt được của sắc pháp, cho nên “sắc bất dị không, không bất dị sắc.” Quý vị tu đạo đạt được sự vui sướng này thì so với sự vui sướng trong tình yêu trai gái hơn cả trăm ngàn vạn lần, cho nên “không bất dị sắc.”

          “Sắc tức thị không”, tức sắc là không.  Quý vị ngay nơi sắc mà hiểu rõ được lý không của nó, không an trụ vào nó, không chấp trước nó, không vơ vào, không gạt bỏ, không thâu nhận nó, tức nó là không. “Không bất dị sắc” “không tức thị sắc”, nếu như quý vị ngay trong lý không mà đạt được loại khoái lạc chân chánh này tức các loại tư tưởng vọng tưởng đều không còn. Tại sao vậy? Vì vui sướng này còn hơn vui sướng của sắc pháp cho nên bao nhiêu vọng tưởng đều buông bỏ.

          Sơn hà đại địa duy thức hiện. Câu này nghĩa là sông núi đất đai chỉ là sự biểu hiện của thức. Chúng đều là sắc pháp, mà sắc pháp từ đâu mà có? Từ tâm thức phân biệt của chúng ta mà hiện ra. Nếu chúng ta có thể biến hóa tâm thức phân biệt này thì sông núi đất đai cũng không còn nữa.

             Mộng huyễn bào ảnh như thị hồ!  Tất cả đều như giấc mơ!

          Ai cũng biết thế nào là giấc mơ, vì ai cũng đã từng mơ, nhưng nếu hỏi họ làm sao để mộng? Tại sao anh có giấc mơ như vậy? Thì y sẽ trả lời, dường như đúng mà cũng không nhất thiết là đúng, hoặc nói như: Có người thì bảo: “Ban ngày nghĩ chuyện gì, ban đêm nằm mơ chuyện đó”. Có người thì nói: “Cảnh này tôi đã từng gặp từ trước, cho nên nay tôi mới nằm mơ như vậy”. Nhưng cũng có trường hợp quý vị chưa bao giờ nghĩ tới mà bây giờ nó xuất hiện trong giấc mơ, như vậy thì giải thích làm sao? Những cảnh có khi quý vị chưa thấy bao giờ, nay quý vị lại gặp trong mộng! Vậy là nghĩa gì? Quý vị không giải thích nổi, cũng như quý vị không rõ làm sao quý vị ra khỏi cơn mộng. Sự việc quả thật hồ đồ, thậm chí sau khi tỉnh mộng quý vị quên luôn giấc mộng. Quý vị thử nghĩ lại coi, tỉnh giấc rồi, không quá mười giờ sau, quý vị chẳng còn nhớ chút gì về câu chuyện trong mộng. Quý vị nói quý vị không tin có tiền kiếp, bởi nếu có các kiếp trước sao quý vị chẳng nhớ gì hết. Quý vị hãy liên tưởng tới giấc mơ thì sẽ hiểu. Ngay đến chuyện quý vị thấy trong mơ, chỉ mới xảy chừng mười tiếng đồng hồ quý vị còn chẳng nhớ, huống hồ những sự việc xảy ra  trong quãng đời quá khứ xa xôi!

          Giả dụ có người đương nằm mơ thấy mình giầu sang, và ngay đấy có người hiện ở trong mơ bảo y rằng: “Bạn giầu có, làm chức vụ lớn, các con trai gái đều đông, tài sản thì nhiều, nhưng không phải thật đâu, bạn đương mơ  đấy!” Người nằm mơ không thể tin nhừng lời đó là thật. Người đó có thể cãi lại như sau: “Cái gì? Bạn nói sao? Tôi đương giàu có, làm quan lớn, trai gái đông, tài sản lớn, sao có thể nói đó là nằm mơ?” Người đó chẳng tin rằng y đương ở trong mộng. Chờ khi y tỉnh dậy, chẳng cần ai nhắc gì, y cũng tự hiểu y vừa trải qua một giấc mộng giàu sang, đông con, lắm tiền nhiều của, tất cả đều là mộng, không có thật. Lúc đó không ai bảo y,  y cũng biết. Tại sao? Vì y đã tỉnh mộng.

         Ngay bây giờ đây chúng ta cũng nên hiểu rằng chúng ta đương sống trong mộng. Tôi có nói với quý vị là quý vị đang mơ, nhưng quý vị không tin. Nhưng đợi khi quý vị tu hành, quý vị tu rồi sẽ hiểu và: “Ồ! Hóa ra trước đây những gì ta đã làm đều là mộng cả.” Mình vốn không làm chủ được mình! Tới lúc đó quý vị mới biết những sự việc đã làm trước đều là mộng. Ðó là nghĩa của chữ mộng trong câu kệ.

          Huyễn là gì? Huyễn nghĩa huyễn hóa. Thí dụ như nhà ảo thuật biến từ chỗ không thành có, rồi từ chỗ có lại biến ra không, chẳng còn gì, biến hóa khôn lường. Trẻ nhỏ coi trò ảo thuật tưởng đó là thiệt, người lớn xem qua thì biết ngay đó là trò hư dối, là giả. Cái đó gọi là huyễn.

          Bào là bọt nước và bọt nước thì mau tan, dụ cho ý nghĩa vô thường.

          Ảnh là hình bóng, nó là thiệt hay giả đây? Quý vị bảo nó là giả, nhưng hãy ngắm nó coi, nó đang ở đó mà. Quý vị bảo nó là thiệt, nhưng lại không bắt nó được. Trông thì thấy, lấy thì không được, vậy thì nó giả hay thiệt?

          Hình bóng từ đâu mà hiện ra? Nó hiện ra ở phía sau thân mình, còn phía mặt dương thì không. Bóng âm này đi theo quý vị từng bước, quý vị đi đâu nó theo đó.

          Hình bóng mà tôi nói là một tỷ dụ. Cái bóng nó như một con ma, nó theo sát quý vị, quý vị đi đâu nó tới đó. Cho nên những người nhát gan, sợ ma quỷ, mỗi khi trông thấy bóng đen thì hoảng hốt, tim đập thình thịch, cho là ma hiện hình, có biết đâu nó chỉ là cái bóng.

Khi người còn sống, cái bóng chỉ là bóng; nhưng khi người chết, không còn thân thể nữa, cái bóng đó biến thành ma, còn phía không có bóng đó biến thành thần. Thần và ma tuy không phải hai mà chỉ là một. Khi quý vị có khí Dương thịnh thì quý vị sẽ dời qua phía không có bóng; khi âm khí thịnh quý vị sẽ qua bên có bóng. Quý vị sẽ hướng tới phía nào mà khí lực của quý vị mạnh hơn. Nếu quý vị là người tốt lành, làm nhiều công đức, quý vị sanh thiên lên trời. Ngược lại nếu quý vị nhiều tội nghiệt, quý vị sẽ đọa xuống địa ngục. Cho nên nói Mộng huyễn bào ảnh như thị hồ là vậy! Nó chính là như thế đó!           

          Thận vật ngoại cầu trì Trung đạo. Hãy cẩn thận chớ cầu ở bên ngoài, hãy giữ lấy Trung Ðạo. Ðó là nghĩa câu kệ này. Chúng ta bất tất phải hướng ra ngoài để tìm kiếm vì tất cả đều ở trong chúng ta.

        Phóng hạ nhiễm duyên tức Lai Như. Nhiễm duyên là gì? “Nhiễm” là ô nhiễm, “duyên” là nhân duyên. Chúng ta nên phải buông bỏ nhiễm duyên. Nhiễm duyên là những thứ gì? Như dục niệm chẳng hạn, lòng tham của chúng ta là nhiễm duyên, lòng sân hận, tâm si mê, có hành động giết hại (sát sanh),  uống rượu hay dùng các thứ ma túy, đó đều là nhiễm duyên cả. Chúng ta phải xa lìa chúng, như vậy mới là người cùng một nhà với Như Lai. “Lai Như” là đến gần chỗ “như” tức thành Phật. Phật gọi là Như Lai, còn chúng ta chưa thành Phật gọi là lai Như.  Khi nào lai (tới) được mới là Như, chưa lai chưa gọi là Như được. Tới đâu vậy? Tới chỗ Phật. Nếu đem các nhiễm duyên đều buông bỏ hết, là có thể lai (tới) Như tức có thể Như đoù. Tới được Như  này thì mọi thứ đều hợp lý, không có một sự gì là sai, cái gì cũng đúng hết. Ðây mới gọi là đến chỗ Như, Lai Như.

         “Không” nói đây là Chân không, sắc là Diệu hữu. Chân không chẳng  phải không - không có gì - bởi vì có Diệu hữu. Diệu hữu chẳng phải là hữu  cũng vì có Chân không. Từ chỗ nào mà hiển hiện ra một cái không vậy? Không hiển hiện từ chỗ nhất như (chỗ có sự hiện hữu), tức cũng là từ chỗ sắc pháp. Từ đâu lại có cái sắc này? Cũng là từ chân không hiện ra cái sắc pháp. Cho nên mới nói rằng: sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc. Ðây cũng có ý nói Chân không chẳng phải là không, Diệu hữu chẳng phải là Hữu (có). Quý vị ngay chỗ chẳng không, chẳng có này mà hiểu rõ, đây mới là hiểu biết Phật Pháp một cách chân chánh.

           Cũng như vừa rồi chúng ta nói đến mộng. Quý vị ngay cả đầu đuôi của giấc mộng như thế nào quý vị còn không rõ. Sao có mộng, sao tỉnh giấc mộng  quý vị cũng không biết. Cho nên, giờ đây chúng ta làm sao mà sanh ra và sẽ chết ra sao, cũng không biết nốt. Nếu ngay trong chỗ không biết này mà hiểu ra, đó tức là giác ngộ.  Cho nên nói: “Sắc tức thị không chân nguyên triệt”. Khi giác ngộ quý vị sẽ hiểu chân lý này. “Không tức thị sắc vọng lưu khô” tất cả vọng tưởng đều chấm dứt không còn nữa như câu “vọng lưu khô”.

          Nếu như quý vị muốn hiểu rõ nghĩa lý khôngsắc, quý vị hãy quán lấy và lãnh hội ngay cái đạo lý “phi không” “phi sắc”này. Cũng như Lục Tổ nói: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tại lúc đó chính là bổn lai diện mục của Thượng-tọa Minh”. Chẳng nghĩ thiện tức là “phi không”, chẳng nghĩ ác tức là “phi sắc”, ngay tại chỗ đó, chỗ “chẳng không chẳng sắc” ấy mà tìm hiểu nghiên cứu một chút tức cũng sẽ ngộ ngay được cảnh giới “cũng không cũng sắc”. Từ đó quý vị đạt được ý nghĩa “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”; trong Chân không có Chân sắc, trong Chân sắc có Chân không; tức ngay sắc pháp cũng là bổn thể của không, không pháp là diện mục của sắc, bởi vậy ở trên tôi có nói trong sắc pháp có không, trong không pháp có sắc.

         Lấy một thí dụ: hòn núi là một sắc pháp. Nay ta san bằng hòn núi đi thì núi chẳng còn gì, đó là không. Ta thử hỏi, trước khi san bằng hòn núi, thì cái không đó có chăng? Cũng có tại chỗ đó. Vậy chỗ có cái không ở đấy thì sắc có chăng? Sắc cũng có ở đó luôn. Như vậy thì quý vị thấy chỗ không đó chăng? Sắc cũng có thể ở ngay đó (chỗ có cái không cũng là chỗ có cái sắc). 

         Không và sắc chỉ là một, cũng giống như nước và băng vậy. Từ đâu có sắc? Sắc từ không biến thành. Biến thành cách nào? Ta có thể lấy nước và băng làm dụ. Như khí trời trở lạnh, băng sẽ kết lại từ chất nước. Rồi sắc biến thành không bằng cách nào? Khí trời nóng, băng lại tan ra thành nước.

         Lại có thể nói, như trong hư không vi trần tụ tập lại để biến ra sắc tướng, nhưng khi gặp nhân duyên ly tán, chúng lại biến thành không, cho nên nói “không chính là sắc, sắc chính là không”.

         Quý vị có thể bảo rằng bụi trần không thể tan giống như băng tan. Chẳng qua đây là tỷ dụ, chớ tôi không nói vi trần là băng. Sợ rằng các vị không lãnh hội được nguyên lý nên tôi tạm mượn băng với nước làm tỷ dụ mà thôi. Quý vị không nên chấp vào đó để bảo rằng vi trần và không tức là nước với băng.  Nghĩ như vậy chẳng khác gì trên đầu lại đội thêm một cái đầu khác, tức là một sự chấp trước. Mới đầu chẳng có chuyện gì, bỗng dưng tôi nói ra ý nghĩa này rồi quý vị có thêm một cái chấp nữa. Nếu cứ chấp nhiều như vậy thì tôi chẳng có cách nào giúp cho các vị thấu đáo lẽ “sắc, không bất nhị”. Cho nên từ từ,  đợi tới lúc nào đó, quý vị tự mình tham ngộ đạo lý này có lẽ quý vị sẽ hiểu  được.

 

Thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị. Xá-lợi-tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

(Thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như vậy cả. Xá-lợi Tử, tướng của mọi pháp là không, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm)

 

受想行識如空色   再呼舍利汝諦聽   是諸法空相無性   不生不滅寂然通

不垢不淨離污染   不增不減悟玄中   湛然靜極超造化   頓覺我法本圓融

  

                                Thọ tưởng hành thức như không sắc

                                Tái hô Xá-lợi nhữ đế thính

                                Thị chư pháp không tướng vô tánh

                                Bất sanh bất diệt tịch nhiên thông

                                Bất cấu bất tịnh ly ô nhiễm

                                Bất tăng bất giảm ngộ huyền trung

                                Trạm nhiên tĩnh cực siêu tạo hóa

                                Ðốn giác ngã pháp bổn viên dung

 

          Phần trên đã giảng về “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc.”  Sắc pháp tuy có nhiều loại, nhưng tóm lại có thể xếp thành ba loại sắc sau đây:

1.  Loại sắc đối đãi và có thể thấy

2.  Loại sắc đối đãi và không thể thấy

3.  Loại sắc không đối đãi và không thể thấy.

         

Các pháp về sắc đều phân biệt từ phạm vi của sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

          Như thế nào gọi là sắc đối đãi và có thể thấy? Ðối đãi có nghĩa là có thể cùng quý vị thành một pháp đối đãi. Thí dụ như người, ta, họ, chúng sanh,; cái sông núi, đất đai này,  bao la muôn thứ đều làhình sắc của thế gian. Các loại này đều có sắc tướng có thể trông thấy được. Ðây đều gọi là sắc đối đãi, có thể thấy, có hình chất nhận ra được thuộc sắc pháp.

          Cũng có loại sắc pháp có tính cách đối đãi nhưng không thể thấy. Nếu không thể thấy, chỉ có thể nghe, đó là gì? Các loại trần: Thanh, hương, vị, xúc. Như âm thanh chẳng hạn, đối thanh trần, có âm thanh là quý vị nghe được: “Ồ! Tiếng này nghe hay hoặc không hay!”  Ðối trước tiếng phát ra, quý vị khởi lên thức tâm phân biệt nhưng quý vị không thấy nó. Quý vị thử nói, âm thanh này có màu sắc gì? Nó màu xanh, màu vàng, màu đỏ, hay là màu trắng? Nó không có màu gì hết. Âm thanh đó hình vuông ư? Hình tròn? Hình tam giác? Hay có hình dài ư? Quý vị cũng không biết, bởi quý vị không thấy được. Thanh trần không có thể tướng, nên nó là loại đối đãi mà không thể thấy. Thanh trần thuộc sắc pháp, trong nhóm năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thuộc về sắc.

         Tỷ dụ mũi ngửi mùi, mùi là hương trần. Quý vị chạm vào hương trần, tiếp nhận mùi hương, nhưng quý vị không nhìn thấy được tướng mạo của nó. Mũi quý vị nhận ra hương nhưng mắt quý vị không thấy gì, chẳng phải vì hương trần không hiện hữu, mà vì nó không có hình tướng nên không thể trông thấy được.

          Quý vị dùng lưỡi nếm các thứ, quý vị bảo là vị ngon, nhưng vị ngon là thế nào? Quý vị có thấy được cái vị đó không? Quý vị không thể thấy vị, nhưng đầu lưỡi của quý vị nếm thì biết được có vị, sanh ra cảm giác là vị ngon, không ngon, vị này chua, vị kia ngọt, cái này đắng, cái kia cay. Tuy nhiên các vị chua, ngọt, đắng, cay, mặn, nói chung là ngũ vị, chúng có hình sắc không? Hình sắc ra sao? Quý vị nhìn không thấy.

          Cuối cùng nói đến xúc. Thí dụ như mặc tơ lụa vào người mang lại cho chúng ta cảm giác vừa ấm vừa mền, vừa mịn màng khiến làn da cảm thấy vui thích tự nhiên, rất dễ chịu. Chúng ta thử nhìn coi cái sự dễ chịu đó ra sao? Cái xúc trần nó như thế nào? Không thấy được. Chúng ta có thể đối chạm với nó nhưng không thấy được nó. Ðây cũng là loại sắc đối đãi mà không thể thấy.

          Các loại ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, hoặc chúng đã qua rồi, hoặc chưa qua, chúng đều lưu lại trong ý thức của chúng ta một hình bóng. Như mắt chúng ta thấy một màu sắc, ý thức liền nhận ra màu đó và chúng ta biết: “Ồ! Tôi thấy màu đỏ”. A! Tôi lại thấy màu vàng, rồi màu xanh, nhưng khi chúng qua đi, hình bóng của chúng vẫn còn lưu lại trong ý thức ta. Nó rơi vào hình bóng bên trong. Quý vị nói: Không có? Nhưng nó lại nhớ có chuyện như vậy. Quý vị nói: Nó có đó? Nhưng cảnh giới đó đã đi qua rồi, đó gọi là bóng ảnh của năm tiền trần. Sắc trần như vậy, thì hương trần, thanh trần, vị trần và xúc trần cũng đều ghi lại hình bóng như thế trong ý thức. Mặc dù các trần đó, tức đối tượng của sự cảm nhận không còn nữa nhưng trong ý thức vẫn lưu lại một cái bóng ảnh. Các hình bóng này gọi là pháp trần, đối tượng của ý và được xếp vào loại “sắc không đối đãi và không thể thấy.” Pháp trần thì không đối đãi được bởi chúng ta không thể trực đối nó, khi nó chỉ là bóng của một cái gì đã qua rồi, không còn nữa. Lại không thể thấy, quý vị không thể thấy được. Như vậy quý vị nói, nó không có ư? Nó vẫn còn ở trong ý thức là, có một việc như vậy. Giống như là một cái dấu ấn khắc trên gỗ vậy. Nó lưu dấu vết ở đó. Tuy nhiên chúng ta không thể thấy được nó không thể nghe tiếng nó và cũng không có cách gì tìm ra tướng mạo thật của nó. Tóm lại cả năm loại trần đầu nói ở trên đều ghi lại hình ảnh trong ý thức thứ sáu thuộc loại sắc không đối đãi và không thể thấy được.

         Sắc đã như vậy (sắc chẳng khác không . . .) thì thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều tương tự như sắc, nghĩa là:

         Tưởng chẳng khác không, không chẳng khác tưởng, tưởng chính là không, không chính là tưởng; thọ chẳng khác không, không chẳng khác thọ, thọ chính là không, không chính là thọ; hành chẳng khác không, không chẳng khác hành, hành chính là không, không chính là hành; thức chẳng khác không, không chẳng khác thức, thức chính là không, không chính là thức. Cho nên nói cũng giống như vậy, tức là cùng sắc, cùng không là giống nhau. Cho nên nói thọ, tưởng, hành thức như không sắc, cùng cái không và sắc như nhau.

       Thọ tưởng hành thức như không sắc. Thọ, tưởng, hành, thức đã được giảng nhiều lần rồi. Xét cho cùng, thì chúng là gì? Chúng từ đâu đến? Chúng sẽ đi về đâu? Chúng ta phải hiểu rõ thực thể của chúng thì mới biết được tác dụng của chúng. Khi biết được tác dụng thì mới biết làm sao đặng có thể hàng phục chúng được. Nay, tôi dùng những lời rất thô thiển để giảng về thọ, tưởng, hành, thức 

         - Thế nào là “Sắc”? Như thân thể của chúng ta đây thuộc về sắc pháp, nên gọi là sắc thân. Tuy sắc thân có hình tướng cụ thể, nhưng nghiên cứu tận cùng nguồn gốc của nó thì nó vốn là không. Tại sao nói như vậy? Như đã giảng qua nhiền lần ở phần trên. Cái thân thể này là do bốn đại hòa hợp mà lập nên,  gồm thành phần: đất, nước,  gió, lửa, chúng cộng tác với nhau trong một công ty hữu hạn. Trong công ty này có bốn loại nhân duyên liên kết với nhau: đất là duyên kiên cố, lửa là duyên nhiệt khí, nước là duyên ẩm thấp, gió là duyên chuyển động. Do bốn loại duyên mới hợp thành một cái thân thể, mang một hình sắc, nhưng khi bốn duyên ly cách, mỗi thứ trở về nơi chốn của chúng, quy về không và sắc thân sẽ không còn nữa, do đó “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”. Sắc chẳng khác không, là Chân không. Không chẳng khác sắc, chính là Diệu hữu. Chân không cũng là Diệu hữu, Diệu hữu cũng là Chân không. Không phải là xa rời chân không để có một cái Diệu hữu khác, cũng không phải dời Diệu hữu qua một bên thì mới xuất hiện một cái chân không.  Thật ra Chân không tức Diệu hữu, Diệu hữu tức là Chân không. Ðây là lúc trước khi tạo lập trời đất, nói về cái mặt mũi gốc gác, (bổn lai diện mục) trước khi cha mẹ sanh ra, thì Phật với chúng sanh chẳng hề có sự phân biệt. 

        - Thứ đến là “Thọ”. Thân thể của chúng ta do bốn đại hòa hợp biến thành một cái sắc thân, có hình sắc có thể thấy được. Khi có thân thể nên ưa thích sự hưởng thọ. Thọ gồm ba loại, ba loại thọ tức là ba loại khổ: khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Quý vị có phải là người sợ khổ ư? Quý vị càng sợ khổ thì khổ càng nhiều. Nếu nói, quý vị không sợ khổ thì khổ có bớt đi chăng? Quý vị không sợ khổ, tuy khổ không bớt đi, nhưng có thể nói khổ không hiện hữu nữa. Bởi vì không sợ khổ nên tự gốc vốn không có khổ; còn như sợ khổ thì bị khổ chừng nào là cảm thấy khổ thêm chừng nấy và càng cảm thấy khổ thì khổ lại càng tới dữ thêm. Khổ rồi lại khổ, khổ khổ, khổ thọ. Cảm thấy rằng mình là người khổ nhất trần ai, gặp cái gì cũng đều thấy là khổ cả.

          Tôi có một đệ tử, từng quy y với tôi, anh ta cảm thấy mọi thứ đều là khổ, Khi giảng pháp anh ta cũng nói về khổ. Ngay đến ăn, anh ta cũng ưa các vị khổ (tức là vị đắng, theo tiếng Hoa). Duy làm công việc thì anh ta không ưa làm công việc khổ sở mà ưa làm công việc vui sướng. Nhưng, ở thế gian này việc làm vui sướng rất hiếm. Làm việc vui sướng cũng chỉ là cái quả của khổ, rốt cuộc lại đều  khổ cả. Lạc thọ nghĩa là hưởng thọ vui sướng, tỷ như quý vị cảm thấy vui thú khi vừa có một cái xe hơi mới. Thế nhưng khi quý vị đã mua xong xe rồi, quý vị lại tưởng muốn mua một chiếc máy bay. Khi đã có máy bay, quý vị lại thích có một cái thuyền máy, để quý vị du ngoạn khắp đó đây trên biển. Tuy nhiên, sau khi có thuyền máy quý vị còn ước muốn ngồi trong hỏa tiễn bay lên cung trăng du hành. Thử nghĩ coi, những vọng tưởng giống như vậy biết bao giờ mới hết. Quý vị  tưởng hưởng thọ là vui sướng, nhưng cái lòng ham muốn thì càng được đầy đủ thì nó càng gia tăng. Tăng vọt đến lên cung trăng, kết quả là không quen thủy thổ ở trên đó nên mắc bịnh. Trên cung trăng lại không có bác sĩ  nên phải chết đi mà làm thân ma trên cung trăng. Vậy là khổ hay vui đây? Lạc thọ cũng chính là nhân của khổ.

        Bất khổ bất lạc thọ thì sao? Quý vị không muốn khổ mà quý vị cũng không muốn vui sướng thái quá, chỉ cần sống tàm tạm, bình thường là đủ. Ðược lắm! Cuộc sống như vậy coi như huề vốn, quý vị không có lãi nhiều, làm ăn không bị lỗ vốn và cũng không làm ra tiền. Vốn của quý vị 50 triệu đồng, nay còn đủ cả 50 triệu, cái đó gọi là chẳng khổ chẳng vui, chỉ có điều quý vị đã uổng phí công lao. Quý vị ra đời mơ mơ hồ hồ, đến lúc ra đi lại cũng mơ mơ hồ hồ. Tài sản của quý vị không được quản lý đàng hoàng, trương mục của quý vị không được tính toán kỹ lưỡng. Tóm lại quý vị hồ đồ đến rồi quý vị đi trong sự hồ đồ, mang vào một cái hồ đồ, chẳng có ý nghĩa gì cả.

        - Nói về “Tưởng”, chắc chắn quý vị không thể không khởi vọng tưởng nếu quý vị muốn hưởng thọ. Quý vị tự hỏi: “Làm sao nghĩ ra cách để mua một chiếc xe hơi đây?” Rồi lại nghĩ làm sao để mua một căn nhà đẹp, mua một cái thuyền máy, mua một chiếc máy bay. Quý vị nghĩ tới nghĩ lui, bao nhiêu vọng tưởng khiến tóc của quý vị cững bạc trắng luôn. Tôi lúc trước có nói qua, khi quý vị nằm dài, nghĩ ngợi, trong đầu trăm phương ngàn kế, đến sáng tỉnh giấc thì không còn muốn làm trăm phương ngàn kế đó nữa rồi nói: A! Ngủ thì tốt hơn, thế là lại nằm ngủ tiếp cho rồi!

         - “Hành” nghĩa là thực hành. Thực hành nhưng điều mà đầu óc quý vị vọng tưởng ra.

         Nhắc lại từ đầu. Thân thể của quý vị là sắc uẩn. Có sắc uẩn là có ý tưởng hưởng thọ. Muốn hưởng thọ thì cần phải vọng tưởng nghĩ ngợi, suy tính làm sao cho đạt được mục đích hưởng thọ, đó là tưởng. Rồi quý vị phải hành động - hành - và ít nhiều, quý vị phải có trí huệ.

         - “Thức” là một khiếu thông minh nhỏ, rất nhỏ, chỉ đáng bằng sợi tóc. Trí huệ nhỏ thì ở trong một căn lầu nhỏ, làm những sự việc nhỏ. Trí huệ nhỏ bé, ở một nơi nhỏ bé, đâu có thể khuếch trương công trình gì được! Một công ty nhỏ bé, ở một cái lầu nhỏ bé chẳng làm nên được sự nghiệp lớn phát trương gì. Bởi vậy quý vị phải có trí huệ nó mới giúp quý vị thực hiện kế hoạch, đáp ứng những điều quý vị vọng tưởng. Ðể cuối cùng sẽ được hưởng thọ. Hưởng thọ rồi quý vị mới thỏa mãn được nhu cầu về thân thể của quý vị. Nay thân thể đã thỏa mãn xong, có hưởng thọ chăng nó cũng chỉ kéo dài trong năm phút! Bởi quý vị đã lao nhọc quá độ, có thể bạo bệnh xâm chiếm khiến quý vị bị đứt mạch máu mà chết cũng không chừng.

         Có thể nói rằng sự hưởng thọ quá ngắn ngủi, thiệt chẳng đáng chút nào!

         Ðó là năm uẩn. Năm uẩn họp với nhau tạo thành công ty. Công ty thì lúc khai trương, lúc lại đóng cửa; hết đóng cửa lại khai trương, quanh đi quẩn lại chẳng ngưng nghỉ, lúc nào cũng mang một hy vọng. Hy vọng điều gì? Kiếp này chẳng kiếm được nhiều tiền, đợi kiếp sau sẽ kiếm nhiều hơn một chút. Nào có hay rằng, kiếp sau có thể còn lỗ lã hơn, cũng giống như người chơi cờ bạc vậy, cứ tưởng rằng nhất định sẽ ăn lớn, kết cuộc bị thua to. Thân thể chúng ta cũng vậy, nó đương chơi bạc đó. Tại sao quý vị muốn đánh bạc, vì không thấy thấu đáo, quý vị không nhận ra rằng trong trời đất này còn biết bao nhiêu cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn. Quý vị không thể lại dấn thêm bước nữa mà càng ngày càng lún sâu. Làm sao bây giờ? Quý vị phải bỏ hết tâm tham đi, Quý vị sẽ không lỗ lã, cũng không được lời. Nhưng vốn của quý vị vẫn còn đó để cho quý vị tu hành. Ðây gọi là “quay về gốc trở về nguồn”, và chỉ có cách này mới giúp quý vị “về nhà” được thôi!

         Phần trên giảng vể ba loại sắc: một là sắc đối đãi và có thể thấy, hai là sắc đối đãi và không thể thấy và ba là sắc không đối đãi và không thể thấy.  Sắc pháp còn có thể chia thành 11 loại, được tính ra như sau: lấy 5 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cộng với 6 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tổng cộng thành 11. Mười một loại này có thể chia ra và quy về ba loại sắc vừa kể.

         Như  đã giảng qua, loại “sắc đối đãi và có thể thấy” gồm tất cả những thứ có sắc tướng, khi đối diện trước mắt thì bao loại sắc tướng đó biểu hiện ra.

         “Loại sắc đối đãi nhưng không thể thấy” gồm bốn loại thanh, hương, vị, xúc này. Như âm thanh chẳng hạn, có thể nghe được nhưng không thể thấy; hương, vị, xúc cũng tương tự như vậy, chỉ có thể cảm giác được nhưng không thể thấy.

         “Sắc không đối đãi và không thể thấy” tức là pháp trần, đối tượng của ý, mà ý cũng thuộc về sắc pháp. Loại sắc pháp này không thấy được, không cảm giác được, nhưng chỉ biết được trong ý niệm. Sao gọi là sắc pháp? Bởi chúng là hình ảnh được lưu lại của năm trần đầu tiên (sắc, thanh, hương, vị, xúc), mà các loại hình ảnh này cũng thuộc về sắc pháp, một loại sắc nằm trong ý thức.

          Ở trên đã giảng sắc chính là không; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều là không, tượng tự như sắc trần vậy. Sắc trần bởi đâu mà có? Sắc trần do đối diện với sáu căn sanh ra sáu thức, cho nên biến thành một loại sắc trần.  

       Tái hô Xá-lợi nhữ đế thính. Câu này nghĩa là gọi Xá-lợi-tử một lần nữa, bảo ông phải chú ý nghe.

      Thị chư pháp không tướng vô tánh. Nói về các “tánh” của sáu căn, tức tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm giác (về xúc chạm) và biết, tánh của các thứ này đều là không. “Tánh” tức nhiên là không, còn cái sắc do tánh mà hiển hiện cũng là không. Tức là không ở ngay trong sắc, chớ không cần phải lìa sắc mới có được không. Như đem tánh thấy và sắc để nói. Quý vị thử nói là sắc có trước hay tánh thấy có trước? Cứ cho rằng sắc có trước, vậy nếu không có tánh thấy, sắc có hiển hiện được chăng? Còn như cho rằng cái thấy có trước thì, khi không có sắc đối diện, thì tánh thấy nó đi đâu rồi? Chẳng có sắc thì tánh thấy cũng là vô dụng. Bởi vậy, tánh thấy vốn là không, sắc cũng là không, và chúng ta không nên sanh một loại chấp tánh lệch lạc, như chấp có thì chính là có, mà chấp không thì chính là không, bởi không và có vốn chẳng phải hai (nguyên tắc bất nhị). Không và có chẳng phải là hai, vì đó là một loại tác dụng của Chân không và Diệu hữu. Những ai không hiểu Phật Pháp thường có loại chấp này, thấy không thì nhất định là không, thấy nhất định phải là coù, mà không hiểu được đạo lý chẳng hai của khôngcoù. Vì không biết nên mới chạy đi kiếm ở bên ngoài, đây chẳng qua “trên đầu lại đội thêm đầu” mà chạy theo vọng tưởng. Bởi vậy Ðức Phật mới nói “Tâm Kinh”, để giảng ý nghĩa của pháp nhiệm mầu: không, có chẳng hai, sắc, không chẳng hai.

       Thọ, tưởng, hành, thức cũng tương tự như không và sắc. Tức thọ, tưởng, hành thức này cùng không và sắc thì giống nhau. Ðó chính là tướng của mọi pháp là không, mà tánh của mọi pháp cũng là không, như đã nói trong câu tụng ở trên: “Thị chư pháp không tướng vô tánh”.

         Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, pháp ngũ uẩn là nói tổng quát về chư pháp. Nói chi tiết hơn người ta còn phân loại thành 100 pháp, gồm 11 sắc pháp, 8 tâm pháp, 51 tâm sở pháp, 24 bất tương ưng pháp và cuối cùng là 6 vô vi pháp.

        - 11 pháp về “sắc” đã được giảng ở trên, tức là 11 sắc trần, trong đó có năm căn đối trước sáu trần. Năm căn là năm loại sắc pháp, sáu trần là sáu thứ sắc pháp.  Mỗi căn và mỗi trần là một loại sắc pháp. Tổng cộng là 11 sắc pháp.

         - 8 pháp ”tâm” là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da thức.

         - 51 pháp “tâm sở” nằm trong hai uẩn: “thọ” và “tưởng”. Nếu phân tích tinh tế có 51 cái tâm sở pháp.

         - 24 pháp “bất tương ưng” thuộc về hành uẩn. Thức uẩn là 8 loại tâm pháp vừa kể.

         -Thêm vào 6 pháp vô vi nữa, tổng cộng thành 100 pháp.

        Bồ-tát Di-lặc chuyển hóa toàn bộ giáo lý suốt một đời hoằng pháp của   đức Thích-ca xếp thành 660 pháp. Sau này hai vị Bồ-tát là Thế Thân và Vô-Trước thấy trong cách phân loại trên số pháp quá nhiều, nên các Ngài rút lại còn 100 pháp. Cho nên nói:

         “Chư pháp không tướng vô tánh” tức là nói năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là không, không có tự tánh.

          Bất sanh bất diệt tịch nhiên thông. Ý nghĩa “bất sanh bất diệt” này đã được Bồ-tát Long Thọ cắt nghĩa hết sức tường tận bằng những câu kệ sau:

                                                Dĩ sanh vô hữu sanh

                                       Vị sanh dĩ vô sanh

                                       Ly dĩ sanh vị sanh

                                       Sanh thời tức vô sanh.[9]

          Dĩ sanh vô hữu sanh là nghĩa thế nào? Dĩ sanh là đã sanh ra rồi. Nếu đã sanh ra rồi thì đâu còn sanh nữa? Sao gọi là, dĩ sanh vô hữu sanh? Nó đã sanh ra rồi mà! Ðã sanh rồi thì sao lại còn sanh được nữa chớ? Thí dụ như cái cây kia, nó đã mọc ra rồi thì quý đâu có thể nói nó còn mọc nữa.

         Vị sanh dĩ vô sanh là nói tới cái chưa sanh (vị sanh). Nếu chưa sanh thì sao có thể nói có cái sanh?

          Ly dĩ sanh vị sanh, xa rời cái sanh rồi và cái chưa sanh. Sanh thời tức vô sanh là lúc sanh tức không có sanh. Ðây cũng giống một ý nghĩa của câu: “Tâm quá khứ không có được, tâm hiện tại không có được, tâm vị lai không có được”.

 

         Bồ-tát Long Thọ đã triệt để phát minh ra một lý luận nói về ý nghĩa của “bất sanh bất diệt”. Cho nên đức Phật nói có tám loại tướng:

                                               Bất sanh diệc bất diệt

                                      Bất thường diệc bất đoạn

                                      Bất nhất diệc bất dị

                                      Bất lai diệc bất khứ.

       Bồ-tát Long Thọ đã dùng bốn câu kệ để hình dung sự vô sanh, sanh là như thế đó, còn về diệt thì sao? Cũng có thể nói kệ như sau:

Dĩ diệt vô hữu diệt

                                      Vị diệt dĩ vô diệt

                                      Ly dĩ diệt vị diệt

                                      Diệt thời tức vô diệt.

       Tôi nghĩ rằng mọi người rất khó lãnh hội được ý nghĩa của luận này, do đó cho tới nay tôi chưa hề giảng tới. Chẳng qua nhân hôm nay nói về bất sanh bất diệt tôi mới giảng luôn một thể. Lý luận tịch nhiên thông bất sanh bất diệt này thì tịch nhiên thông đạt vô ngại.   

       Bất cấu bất tịnh ly ô nhiễm. Tự tánh vốn là thanh tịnh, bất cấu bất tịnh nghĩa là chẳng dơ, chẳng sạch. Chỉ có điều khi sanh ra và làm con người thì liền có dơ và có sạch. Tuy nhiên dơ và sạch đó lại chính là chẳng dơ và chẳng sạch. Chẳng qua vì con người chúng ta thường có cái nhìn thiên lệch nên hay chấp trước, chấp cái này dơ, cái kia không dơ, cái nọ là thanh tịnh, và do có những loại tâm chấp trước như vậy mà biến thành dơ với sạch.

         Chúng ta nói cái tâm chấp trước, ấy là nghĩa sao? Thí dụ như hai bàn tay của chúng ta, đôi khi vì lý do gì đó nó dính phải phân, hoặc là phân heo, hay phân người chẳng hạn, lúc đó cảm thấy rất là dơ bẩn. Nhưng nếu ta lấy nước rửa tay cho kỹ, thì ta nhận thấy nó trở lại sạch sẽ như cũ. Tuy nhiên, nếu là trường hợp của một cái khăn lông đã dùng để gói phân hay một thứ gì khác dơ bẩn, chúng ta sẽ thấy cái khăn này rất ô uế, phải vứt bỏ nó đi, dù ta đã cẩn thận giặt nó bằng xà-bông rồi. Bàn tay thì khi đã rửa bằng nước xong, tâm của chúng ta không chấp về sự dơ uế nữa, nếu không thì chẳng lẽ lại cắt bỏ bàn tay đi giống như cái khăn chăng? Vì hai tay không thể cắt cho nên trong tâm mới cho là nó sạch. Còn cái khăn thì một khi nó đã bị dơ, dầu sau đó đem ra giặt sạch, quý vị cũng không muốn, không muốn dùng nó để lau mặt nữa, một khi lau xong quý vị sẽ cảm thấy mặt quý vị như có mùi hôi hám. Cảm tưởng đó là do trong tâm quý vị đã không muốn nó rồi.

        Tất cả là do tâm chấp trước, nếu như tâm không có loại chấp trước này thì bất cấu bất tịnh. Nếu như trong tâm không có sự chấp trước này thì sự ô nhiễm cũng không thành vấn đề. Ô uế hay thanh tịnh thì cũng là một, tự tánh vốn là bất cấu bất tịnh. Nếu như có thể trước mọi sự vật, có dơ có sạch mà chúng ta hiểu thấu được nguyên lý bất cấu bất tịnh, lúc đó dơ và sạch chẳng thể nào chuyển biến được tâm ta, và tâm ta tức phù hợp với tự tánh vậy.  Nếu tới được trình độ này, đức hạnh của quý vị sẽ sánh ngang với trời đất (thiên địa hợp kỳ đức), hào quang của quý vị có ánh sáng của vừng nhật nguyệt (dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh). Có ánh sáng chói rạng như ánh sáng của nhật nguyệt. 

Ðức Phật vì sao có thể sánh như trăm ngàn vạn mặt trời? Cũng vì Ngài đạt được ý nghĩa của bất cấu bất tịnh.  Nếu chúng ta cũng chứng được cái Ðạo lý thiên nhiên bất cấu bất tịnh như vậy, thì chúng ta cùng cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông cũng đồng hợp nhất. Quý vị cũng có thể hợp nhất với sự kiết hung của quỷ thần. Tại sao ta không làm được như vậy? Bởi chúng ta chấp trước một cách thiên lệch. Nếu không chấp trước như vậy, ta sẽ phản bổn hoàn nguyên, trở về gốc, quay về nguồn, và xa lìa cái ô nhiễm này.        

Bất tăng bất giảm ngộ huyền trung. Nếu quý vị giác ngộ tự tánh là cũng không tăng không giảm, quý vị sẽ đạt tới sự tối vi diệu của lý Trung Ðạo. Huyền trung là lý trung đạo huyền diệu.

        Ở trên, tôi vừa nói về đạo lý vô sanh của Bồ-tát Long Thọ cũng như đã đề cập về 8 loại tướng mà đức Phật thuyết giảng trong thời Phương Ðẳng. Ðó là các tướng “chẳng sanh chẳng diệt, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng một chẳng khác, chẳng đến chẳng đi”.

          Số là phần đông chúng ta, nếu không chấp đoạn thì lại chấp thường. Ðoạn là đoạn diệt, thường là thường còn. Ðoạn kiến thường kiến là lý luận của ngoại đạo, còn pháp Phật thuyết là chẳng đoạn mà cũng chẳng thường. Nói về đời sống con người chẳng hạn, thử đặt câu hỏi, chúng ta chết đi rồi tức là mất chăng? Nếu ta cho là thường còn, vậy người xưa đã đi đâu hết cả mà chúng ta không thấy họ? Chúng ta không thấy bởi lẽ họ chẳng sống mãi mãi nên đó là lẽ chẳng thường. Nếu nói chẳng thường thì hạt gạo mà chúng ta ăn hiện nay cũng vẫn là hạt gạo mà người xưa đã ăn. Ðây là lẽ chẳng đoạn. Do đó Ðức Phật mới giảng lý chẳng đoạn chẳng thường, không nên chấp đoạn kiến, cũng không chấp thường kiến. Như vậy là hợp với Trung Ðạo, như chữ  “ngộ huyền trung” trong câu tụng kệ.

Chẳng đến chẳng đi  (bất lai bất khứ). Như Lai không phải từ một chỗ nào đến, và cũng không đi tới một chỗ nào. Ðây chẳng riêng Như Lai, ngay chúng ta đây cũng chẳng đến chẳng đi. Bảo là đến, thì chúng ta đã từ nơi nào đến? Chúng ta không biết. Bảo là đi, vậy chúng ta đi tới chỗ nào? Chúng ta cũng không biết luôn. Chẳng đến chẳng đi vì chẳng phải từ đâu đến, chẳng đi về đâu.

           Chẳng một chẳng khác (bất nhất bất dị). Chẳng một tức là không cùng một thứ, chẳng khác tức là không phải hai thứ, không có tương sai biệt. Chẳng một, tức chẳng có tướng tương đồng, ví dụ như thân thể này là một tổ hợp của các bộ phận khác nhau tạo nên. Ðó gọi chẳng một. Chẳng khác, như cái thân thể này, nói chung, so với một thân thể khác thì không có sự phân biệt. Ý nghĩa này nói ra thì rất phức tạp, phải giảng nhiều lần, mỗi lần giảng một chút, quý vị mới có thể hiểu được.

          Chẳng tăng chẳng giảm (bất tăng bất giảm). Tự tánh cũng là chẳng tăng chẳng giảm. Có một câu nói chúng ta thường được nghe, đan cử ra đây có thể giúp chúng ta hiểu thêm về đoạn văn kinh này:

無情歲月增中減

有味佛法苦後甜

                                                Vô tình tuế nguyệt tăng trung giảm

                                                Hữu vị Phật Pháp khổ hậu điềm.

Tạm dịch là:

                                                Năm tháng vô tình, tăng mà giảm

                                                Phật Pháp có vị, đắng sau ngọt.

       Nói rằng năm tháng vốn vô tình, không có một chút tình người, tuy có tăng nhưng cũng có giảm, như vậy là nghĩa gì? Ðã nói là chẳng tăng chẳng giảm, nay lại nói có tăng có giảm?

       Cái tăng giảm cũng chính là cái chẳng tăng chẳng giảm. Về thời gian thì năm tháng thật là vô tình. Bảo nó đừng có chạy đi, như ngày hôm nay chẳng hạn, bảo nó hãy ngưng lại cho chúng ta thêm chút ít thời gian, là điều không thể được. Không có cách nào giữ được thời gian ngừng lại. Muốn nó ngừng lại, trừ phi chúng ta có phép gì giữ chặt vầng thái dương kia, không cho nó di chuyển. Hiện nay khoa học có tiến bộ đấy nhưng đâu có thể níu lại được mặt trời! Năm tháng là vô tình vậy. “Tăng trung giảm” tức là giảm ở trong tăng. Tỷ dụ năm nay chúng ta là 60 tuổi, tới sang năm thì thọ mạng tăng thêm một tuổi. Ðó là nghĩa tăng. Tuy nhiên, nếu xét về mặt thời gian cuối đời tính cho tới lúc chết thì có sự giảm. Giả thử thời gian cuộc đời là một trăm năm thì tới năm 61 tuổi chúng ta chỉ còn lại 39 năm thay vì 40 năm. Như vậy mặt kia tăng thì mặt này giảm, trong tăng có giảm, hay nói khác là trong giảm có tăng. Nếu hiểu được minh bạch ý nghĩa này vì căn bản là vốn chẳêng tăng và chẳng giảm.

        Còn câu “hữu vị Phật pháp khổ hậu điềm” đó nghĩa là Phật pháp có hương vị nhất, trước đắng sau ngọt. Quý vị học Phật Pháp, cứ học được chút ít là hiểu sáng tỏ thêm một chút ít. Có phải là ngày hôm qua tôi đã giảng về sự khai ngộ, trong đó có tiểu ngộ, trung ngộ và đại ngộ sao? Ngộ nhiều cỡ nào thì gọi là tiểu ngộ? Nhiều giống hư không vậy. Ngộ chút ít, là trong thức thứ tám của quý vị đã từng có sự khai ngộ mà quý vị còn chẳng hay. Tới lúc quý vị cảm thấy hiểu rõ các ý nghĩa Phật pháp hơn một chút, chúng vốn chẳng tăng chẳng giảm như vậy, vốn là chẳng sanh chẳng diệt, có nhiều ý nghĩa như vậy. Nếu quý vị sáng tỏ những đạo lý đó tức quý vị đã tới được trung ngộ. Ðại ngộ thì quý vị đã giải quyết xong sanh tử, đến như thế nào, đi như thế nào quý vị đều biết. Thế nào là tăng? Thế nào là giảm? Cả đến, sao là đạo lý chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh chẳng diệt, mọi sự đều liễu ngộ. Ðó gọi là đại ngộ.

         Vị của Phật pháp, trước đắng sau ngọt. Mới đầu chúng ta phải ráng chịu khổ một chút. Không phải, mới học ba ngày rưỡi chưa tới năm ngày, rồi bảo rằng tôi đã học đủ Phật pháp. Quý vị nhất định phải có tâm nhẫn nại, bất chấp mọi thứ gian nan cực khổ, đều là muốn học.  Tại sao tôi mỗi ngày đều theo đúng thời khóa: Ðến lúc dạy tiếng Hoa thì tôi nhất định dạy các vị tiếng Hoa. Ðến lúc giảng kinh, tôi lại giảng kinh. Trừ những trường hợp đặc biệt thì không kể, không khi nào tôi lười biếng trong việc giảng dạy. Tại sao vậy? Bởi có thực tâm nghiêm chỉnh tu học chúng ta mới nếm được mùi vị của Phật pháp. Nhất định trước thì đắng về sau mới có vị ngọt được. Cho nên chúng ta không nên sợ khổ, mà càng khổ càng tốt, phải phấn chấn tinh thần lên, kiên trì chí hướng, tinh tấn dũng mãnh tiến bước, không sợ khổ không sợ khó.

         Trạm nhiên tĩnh cực siêu tạo hóa. Trạm nhiên nghĩa là thanh tĩnh. Tĩnh cực là vắng lặng đến cực điểm. Siêu tạo hóa ở đây nghĩa là có khả năng siêu vượt ra ngoài thiên địa, tạo hóa.

        Ðốn giác ngã pháp bổn viên dung. Ðốn giác là giác ngộ tức khắc. Nếu chúng ta lãnh hội được những đạo lý nói trên, thì tức khắc chúng ta sẽ biết được rằng    Ngã và Pháp chỉ là một, không phân biệt, vô nhị, vô biệt, và chúng hoàn toàn viên dung không có sự ngăn ngại.

 

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới.

(Do đó, trong cái không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến ý thức giới)

            是故空中無色相   受想行識亦亡蠲  

  六根六塵並六識   三心三止透三關   

  白牛大車磷磷轉   黃臉小兒跳跳鑽  

  若問個中何旨趣   前三三接後三三

 

                            Thị cố không trung vô sắc tướng

                            Thọ tưởng hành thức diệc vong quyên

Lục căn lục trần tinh lục thức

Tam tâm tam chỉ thấu tam quan

Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển

Hoàng kiểm tiểu nhi khiêu khiêu toản

Nhược vấn cá trung hà chỉ thú

Tiền tam tam tiếp hậu tam tam.

 

        “Thị cố không trung vô sắc”, đoạn kinh này tiếp vào đoạn trước “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”. Bởi trong cái không - Chân không - không có sắc. “Vô thọ tưởng hành thức”, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức, và bổn thể của chúng là không. “Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý”, tức là sáu căn cũng chẳng có. “Vô sắc thanh hương vị xúc pháp”, sáu trần cũng vậy, đều là không. “Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới”, tức sáu thức đều không.

          Bộ Tâm Kinh nói về Không, bàn về Chân không của Bát-nhã. Bát-nhã Chân không chính là Diệu hữu, Diệu hữu phi hữu (không ) cũng tức là Chân không. Do đó mới nói là giữa Chân không và Diệu hữu chẳng có ngăn ngại. Chân không không ngại Diệu hữu. Diệu hữu không ngại chân không. Chân không cũng là Diệu hữu. Diệu hữu cũng chính là Chân không. Cho nên kinh văn phía trước mới nói: “sắc bất dị không, không bất dị sắc”, tức là cùng một nghĩa này.

        Pháp ngũ uẩn là nói pháp tổng quát. Sắc pháp của ngũ uẩn tức nhiên là không. Biệt tướng của pháp tức lục căn, lục trần, lục thức. Tổng tướng tức  nhiên là không, biệt tướng thì đương nhiên cũng không thể có được. Cho nên nói: “Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới”.

         Lục căn, lục trần, lục thức họp lại thành mười tám giới. Riêng lục căn hợp với lục trần gọi là mười hai xứ. Lục căn còn gọi là lục nhập.

        Mười tám giới cũng là không, cũng là không có. Vậy thì nói tới các pháp này để làm gì, nếu rốt ráo thì chúng là không? Vì đối với các bậc thánh đã chứng quả thì chúng đúng là không, nhưng đối với phàm phu chúng lại là có.

         

Cho nên kệ tụng như sau:

       Thị cố không trung vô sắc tướng. Dịch ra là: bởi thế nên trong cái không đó, nó không có sắc. Trên đã giảng qua ý nghĩa này.

       Thọ tưởng hành thức diệc vong quyên. Thọ, tưởng, hành, thức cũng mất luôn (vong quyên), vì tất cả các món này cũng đều không.

       Lục căn lục trần tinh lục thức. Lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục trần đối lục căn tức sanh ra sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Căn là gốc rễ, ngụ ý về sanh trưởng, còn trần là bụi, ngụ ý có sự ô nhiễm bên trong.  Lục căn hợp với lục trần tạo thành sự nhận thức phân biệt mà sanh ra lục thức, gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Tất cả hợp lại thành mười tám giới.

        Tam tâm tam chỉ thấu tam quan. Tam tâm là ba tâm, tức tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai. Tâm quá khứ phải ngưng, tâm hiện tại cũng như  tâm vị lai đều phải ngưng, cả ba tâm phải đình chỉ (tam chỉ) không nên có, cho nên có câu nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”. Nếu như chúng ta theo được các câu này, tức không móng khởi tâm quá khứ, không sanh tâm hiện tại, không có tâm vị lai, thì ngay đó, là lúc chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác. Nếu ba tâm đã không còn, làm sao quý vị còn có thể nghĩ thiện hay nghĩ ác?  Ðó là lúc quý vị dụng công tu hành, đã đạt tới trình độ lấy thiền duyệt làm thức ăn, sống với niềm pháp hỷ sung mãn, rồi chính trong giờ phút tĩnh tọa quý vị lại mở được ba lần cửa (tam quan), cửa thứ nhất là sơ quan, cửa thứ hai là trung quan và thứ ba là thượng quan. Sơ quan còn gọi là vĩ lư quan, trung quan là giáp tích quan, thượng quan tức là ngọc chẩm quan hay còn tên khác nữa là sanh tử quan. Sơ quan và trung quan thì dễ qua được, nhưng đến cửa thứ ba thì khó phá hơn. Qua được ba cửa này, tiếp tục dụng công nữa, quý vị sẽ tới được những cảnh giới sau đây:

        Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển. Kinh Pháp Hoa nói về bạch ngưu đại xa, nghĩa là cỗ xe trâu trắng lớn, tượng trưng cho Phật thừa.  Duy có một Phật thừa chớ không còn thừa nào khác. Chỉ khi nào chứng được Phật thừa, quý vị mới có thể đi trên đạo lộ này và ngồi trên cỗ xe lớn này mà thôi. Ðiều này dạy chúng ta phải biết dụng công làm sao để chuyển được pháp luân đặng có thể giáo hóa chúng sanh.

         Sao nói là đại cỗ xe bạch ngưu, mà không gọi là đại cỗ xe hắc ngưu, đại cỗ xe hoàng ngưu, hay đại cỗ xe hoa ngưu?  Số là cổ xe này là màu trắng   tượng trưng cho tự tánh của chúng ta thì không ô nhiễm. Quý vị tu pháp Ðại thừa ví như cỗ xe bạch ngưu di chuyển, phát ra tiếng linh kinh của bánh xe lăn (lân lân chuyển) trên đường. Ðương lúc dụng công đó, người tu tự thấy có một loại cảm giác, như sẽ nói trong câu kệ sau:

        Hoàng kiểm tiểu nhi khiêu khiêu toản. Ðó là cảm giác say sưa như người uống rượu, như trong giấc ngủ, hay giống như người đương nằm mộng, cuối cùng cũng không biết đâu là thật hay giả, hư (dối) hay thực, tay chân mềm nhũn, bủn rủn không còn gân sức, tựa bùn non nên không còn muốn làm gì hết. Nhưng ngay lúc ngồi thiền, hoặc không phải ngồi thiền, ngẫu nhiên thấy thân thể chấn động run cầm cập, có cảm giác như tim đập mạnh, bưng, bưng, bưng mà kỳ thực không phải tim đập, mà là tỳ tạng đập. Tỳ tạng hay lá lách, nếu đập sẽ giúp cho sự tiêu hóa. Mỗi khi quý vị chạy nhanh chẳng hạn, lá lách sẽ đập chạm vào bụng giúp cho sự tiêu hóa, nó làm việc nhiều một chút, khiến cho tỳ vị hoạt động nhiều hơn.

         Câu kệ tụng trên có chữ hoàng kiểm tiểu nhi, tức là nói “đứa nhỏ mặt vàng” là ngụ ý gì vậy? Ðứa nhỏ đó chỉ ý niệm của quý vị. Ðây là chữ ý trong nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân và ý. Ý nằm ẩn chứa trong ở bộ phận lá lách, và lá lách có màu vàng, do đó mới gọi ý là đứa nhỏ mặt vàng. Khiêu khiên toản, nghĩa là nhảy tới nhảy lui. Gặp tình trạng này, có số người ngồi thiền, đương lúc gặp lúc này, sẽ không biết tại sao tim mình lại đập mạnh như vậy, nghĩ mình đã bị bệnh tim, đâm ra lo lắng. Thực ra không phải là tim đập và không có gì phải hãi sợ, vì đó chỉ là một hiện tượng xảy ra trong quá trình dụng công tu đạo tức thấy tim đập mạnh giống như trong tình trạng sợ hãi. Khi cỗ xe lớn bạch ngưu chuyển bánh pháp luân, ý niệm bên trong sẽ rung chuyển mạnh giống y như sợ sệt gì.  Trong tâm như con thỏ nhảy lên nhảy xuống liên hồi. Nhưng thực ra đó chỉ là đứa nhỏ mặt vàng nhảy tới nhảy lui mà thôi.

        Nhược vấn cá trung hà chỉ thú. Nếu quý vị hỏi, đây có nghĩa là gì? Có đạo lý gì? Có tông chỉ gì? Có lý thú (hướng) gì?  Nếu quý vị muốn hỏi, hãy nghe câu kệ sau:

       Tiền tam tam tiếp hậu tam tam. Trước sau ba nơi. Ngay lúc ba chỗ phía trước tiếp liền ba chỗ phía sau, phía trước hợp với đường sanh tử phía sau tiếp nối. Ðây là nói vấn đề sanh tử. Trước đây đường sanh tử phân biệt với nhau, là con đường mà mỗi người phải đi qua, sanh đi đường sanh, tử đi đường tử, đường sanh và đường tử chẳng đồng. Còn bây giờ thì sao? Tới cảnh giới này rồi thì sao? Sanh và tử là một, sanh cũng là tử, tử cũng là sanh, cũng giống như nghĩa sắc không, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc. Sanh tử không phải là hai. Tới đây rồi thì sanh tử là một, hay nói khác chẳng có sanh và chẳng có tử.

        Tuy nhiên, chúng ta phải dụng công. Nếu không dụng công, hoặc như tiến một bước lại lùi bốn bước thì cũng thành vô dụng. Cho nên, trừ phi quý vị không muốn tu, còn như tu thì phải ngày ngày tiến tới tinh tấn. Chỉ cần quý vị lùi một bước là coi như mất hết công phu lúc đầu. Nếu muốn tu tiếp quý vị phải đi lại từ đầu. Tóm lại tu đạo là chỉ có tiến lên chớ không được lùi bước.

 

Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.

(Không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết)

無無明盡本性空   妄行了別名色從   六入觸受愛取有   來生老死盡相同

萬里晴空絕雲影   滿潭澄水顯月明   如人渴飲知冷暖   說食助長總乏功

 

Vô vô minh tận bổn tánh không

Vọng hành liễu biệt danh sắc tòng

Lục nhập xúc thọ ái thủ hữu

Lai sanh lão tử tận tương đồng

Vạn lý tình không tuyệt vân ảnh

Mãn đàm trừng thủy hiển nguyệt minh

Như nhân khát ẩm tri lãnh noãn

Thuyết thực trợ trưởng tổng phạp công.

 

       Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Chỗ này kinh nói về Thập Nhị Nhân Duyên, pháp tu của Duyên Giác thừa. Do mười hai thứ duyên làm trợ duyên, giúp con người sanh ra rồi lại chết, chết rồi lại sanh. Duyên giác tu pháp mười hai nhân duyên mà hiểu rõ đạo lý nhân sanh, và khai ngộ, chứng đắc quả Bích Chi Phật, Ðây gọi là Trung thừa. Thanh văn thuộc hàng Tiểu thừa, Bích-chi Phật là Trung thừa, Bồ-tát là Ðại thừa.      

Sao gọi là vô minh?

-Vô minh là không sáng tỏ minh bạch. Tục ngữ gọi là hồ đồ, đây là tình trạng mù mờ, không hiểu rõ nghĩa lý. Bởi không hiểu rành rọt nên hành động có tính cách hồ đồ, làm càn, làm những việc không nên làm.

         -         Vì hành động không đúng nên lại đưa tới nhận thức hư vọng, hão huyền.

         -         Nếu nhận thức hão huyền, thứ đến là có sự hồ đồ về danh sắc

         -         Hồ đồ về danh sắc, tức nhập hồ đồ, biến thành lục nhập. Có nhập hồ đồ, tức lục nhập, và kéo theo các sự hồ đồ về các thứ sau: Xúc hồ đồ sẽ khiến nghĩ đến một loại hưởng thọ hồ đồ, lại có ái hồ đồ kéo đến thủ hồ đồ, đắc hồ đồ, sẽ có sanh, lão, tử.

         -         Xúc, tức sự đụng chạm

         -         Thọ, cảm thọ

         -         Ái, là ham thích

         -         Thủ, giữ lấy

         -         Hữu, có được, hiện hữu

         -         Sanh, rồi từ sanh qua

         -         Lão, từ lão đến

         -         Tử.

      Nhân duyên là như vậy, chẳng qua vì vô minh là đầu mối, là sự hồ đồ lúc khởi thủy nên nó kéo theo cả một hậu quả hồ đồ, trải qua một kiếp sống hồ đồ cho đến kiếp sau cũng lại hồ đồ như vậy. Cho nên mười hai nhân duyên chính là một vòng nhân duyên hồ đồ, mà kẻ phàm phu không thể hiểu rõ cho được.        

          Vô vô minh tận bổn tính không. Mười hai nhân duyên bắt đầu từ sự hồ đồ, mê mờ. Lòng dục của con người, như hoặc là ham thích ăn, hay ham thích sắc dục, bởi đâu mà sanh ra? Tất cả cũng từ vô minh. Thập nhị nhân duyên giải  thích cho chúng ta hiểu rõ con người thọ sanh như thế nào và tử ra sao?

         Bởi có vô minh nên mới có vấn đề tính dục, nói khác là hành vi tính dục của trai gái. Do hồ đồ mà có hành vi này, rồi cũng trong sự hồ đồ mà có thức, thức đó chính là thân trung ấm. Khi nam nữ giao hợp, một tia sáng rất nhỏ lóe ra, và nếu thân trung ấm kia có một sự liên hệ quyến thuộc nào đó với cha hay mẹ, thì ngay đấy dù có cách xa hàng vạn dặm cũng nhập vào cái tia sáng để đến đầu thai. Thức đã đầu thai nên có danh sắc. Danh là nói chung là bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức, còn sắc là sắc uẩn. Trong bào thai thì bốn uẩn vừa nói chỉ có tên mà thôi, chưa thật sự thành tựu. Ðợi khi danh sắc đã phát triển đầy đủ thì có lục nhập thành tựu. Lục nhập do sáu căn mà sanh ra sáu thứ tánh: thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm giác và biết. Khi có sáu loại lục nhập này, thì đứa trẻ sẽ có một loại xúc giác. Cho nên lục nhập duyên xúc, gây nên sự xúc chạm. Có xúc chạm là có thoï, tức là lãnh thọ. Thọ mang lại ái, tức là lòng ưa thích. Vì ưa thích nên muốn giữ lấy, do đó người ta nói ái duyên thủ, giữ lấy cái mình thích. Ý đã muốn giữ nên có sự chiếm hữu, tức là đắc. Từ đó mà có sự sanh ra (đời sau), sanh rồi đến lão tử, nói đủ mười hai nhân duyên.

         Nếu không có vô minh thì sẽ không có hành, vô minh diệt thì hành diệt; hành diệt là thức diệt; thức diệt là danh sắc diệt; danh sắc diệt tức lục nhập diệt; lục nhập diệt tức xúc diệt; xúc diệt là thọ diệt; thọ diệt là ái diệt; ái diệt là thủ diệt; thủ diệt là hữu diệt; hữu diệt thì sanh lão và tử đều diệt; diệt hết mười hai nhân duyên. Bởi vậy mới nói “vô minh tận bổn tánh không”, bổn tánh  không thì không có vô minh.     

        Vọng hành liễu biệt danh sắc tòng. Hành là vọng hành, hành vi hư dối. Liễu biệt là nói về thức. Sau khi có thức thì có danh sắc (danh sắc tòng).

       Lục nhập xúc thọ ái thủ hữu. Danh sắc đã có thì có các thứ sau nối tiếp, đó là: lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu.

       Lai sanh lão tử tận tương đồng. Vì có hữu nên có sanh trong đời sau (lai sanh). Ðời sau đã sanh ra thì sẽ có giaø và chết. Cho nên nói lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, rồi lại sanh lão tử cũng đồng như vậy (tận tương đồng).

       Vạn lý tình không tuyệt vân ảnh. Vạn lý tình không là trời tạnh ráo, hàng vạn dặm bát ngát. Tuyệt vân ảnh là không một bóng mây. Ðây ngụ ý rằng vòng nhân duyên như một cái xâu chuỗi liên kết chặt chẽ với nhau. Nếu nhân duyên diệt hết được thì cũng tương tự như vạn lý tình không, không khoảng trời vạn dặm, mây đen, mù mờ gì cũng không có như nói trong câu kệ.

       Mãn đàm trừng thủy hiển nguyệt minh. Trạng thái nói trên chính là cảnh tượng của mặt hồ nước trong (mãn đàm trừng thủy) hiện rõ bóng mặt trăng sáng (hiển nguyệt minh).

       Như nhân khát ẩm tri lãnh noãn. Nếu quý vị ngộ được pháp Thập nhị nhân duyên, có được công phu này rồi, thì khi công phu tới nơi, sẽ giống như người đương khát mà uống nước, nước nóng hay lạnh quý vị sẽ tự biết (tri lãnh noãn).

       Thuyết thực trợ trưởng tổng phạp công. Ðiều chính yếu là phải thực sự tu hành, phải tham ngộ được pháp Thập nhị nhân duyên này, còn như chỉ biết nói suông rằng: “thập nhị nhân duyên là không! Là không! Là không!” nói nó là không hết, chẳng hạn, mà không thể hội nhập được ý nghĩa của nó, tức chưa chân chánh chứng đắc loại đạo lý không này. Ðây cũng giống như câu “thuyết thực” nói trong kinh Lăng-nghiêm: “Tỷ như thuyết thực, chung bất năng bão”, nghĩa là cứ nói suông rằng ăn, rốt cuộc không no bụng. Dù có nói đến bao nhiêu ngày cũng vậy mà thôi không thể no được.

         Còn “trợ trưởng” là lấy trong truyện xưa của người nước Tống. Hồi đó hễ cứ thấy ai ngu ngốc là người ta bảo đó là người nước Tống. Tại sao? Bởi vì người nước Tống là người ngu si nhất. Ngu đến nước nào? Câu chuyện có tên là: “Người nước Tống thương cây mạ không lớn nên kéo cho nó cao lên”.

        Có một người ở nước Tống kia, trồng lúa, thấy cây mạ của mình chậm lớn. Anh ta nghĩ kế giúp cho cây mạ mau lớn bằng cách lấy tay kéo cây mạ cao lên, một hai tấc. Kế đó, thân thể mệt nhoài vì công anh ta kéo các cây mạ lên, quá cực nhọc vất vả, anh ta chạy về nhà bảo với mọi người rằng, anh đã giúp cho mạ lớn lên và do đó đã bị bệnh. Ðứa con của anh ta nghe thấy vậy, nghĩ bụng chắc là cha của mình có nhiều tài cán, hay có pháp thuật thần thông gì mới có thể làm cho cây mạ mau lớn như vậy, nó bèn chạy ngay ra đồng coi thử cha mình đã dùng bùa chú gì, thì thấy mạ trong ruộng đều khô héo, chết queo hết.

         Các thí dụ này nêu ra là để ngụ ý rằng kẻ dụng công không nên có những tư tưởng như sau: “Ta đã khai ngộ! Ta đã khai ngộ!” hoặc “Tại sao ta chưa khai ngộ? Làm sao để được khai ngộ đây?” Hoặc nghĩ: “Ta bước tới vài bước cũng chẳng khai ngộ, bước về sau cũng chẳng khai ngộ, nhảy lên vài cái cũng chẳng khai ngộ, ngồi đây cả tiếng đồng hồ chẳng khai ngộ, rốt cuộc làm sao để khai ngộ?” Nếu quý vị có những tư tưởng như cái tâm này thì vĩnh viễn quý vị sẽ không khai ngộ. Tại sao vậy? Vì chính cái tâm muốn khai ngộ đó đã đè nén cái khả năng khai ngộ của quý vị rồi, giống như hành động của người nước Tống kia giúp cho mạ mau lớn vậy. Cho nên câu kệ nói rằng: “Thuyết thực trợ trưởng tổng phạp công”. Tổng phạp công nghĩa là chẳng được công gì.

          Chúng ta phải giữ tâm khí mình bình tĩnh tu hành, phải thực tiễn đặt bước chân đi một cách chân thực. Không nên có ý nghĩ rằng ngày mai ta có khai ngộ không đây? Hay là ngày mốt sẽ khai ngộ đây? Rốt cuộc thì tới ngày nào mới được khai ngộ? Trong tâm không nên sanh ra những tư tưởng đó. Nếu nghĩ như vậy chính là vọng tưởng. Nếu quý vị còn có vọng tưởng này thì khai ngộ sẽ sợ   chạy mất.  Vì khai ngộ sợ vọng tưởng, nên khi quý vị có vọng tưởng, khai ngộ sẽ bỏ chạy. Tại sao tim quý vị đập? Bởi nó sợ vọng tưởng đó! Nó cũng sợ khai ngộ. Một khi quý vị khởi tâm muốn khai ngộ, tim quý vị đập mạnh. Tim đập  tức vô hình trung các nghiệp chướng sẽ hoảng sợ. Nghiệp chướng nói: “Y sắp khai ngộ đó, ta phải làm sao đây?”  và nó sẽ chẳng làm gì được.

 

Vô khổ tập diệt đạo.

(Không có khổ, tập, diệt, đạo)

諸苦逼迫各相攻   聚集招感自不同   惟滅可證究竟樂   是道應修悟法空

三轉四諦法輪運   七覺八正意念勤   一旦貫通成聖果   偏真有餘乃化城

 

Chư khổ bức bách các tương công

Tụ tập chiêu cảm tự bất đồng

Duy diệt khả chứng cứu cánh lạc

Thị đạo ưng tu ngộ pháp không

Tam chuyển Tứ đế pháp luân vận

Thất giác Bát chánh ý niệm cần

Nhất đán quán thông thành thánh quả

Thiên chân hữu dư nãi hóa thành

 

         Câu “vô khổ tập diệt đạo” trong kinh là pháp không của Thanh Văn. Khổ, tập, diệt, đạo là pháp Tứ đế, pháp tu của hàng Thanh Văn. Thế nào gọi là Thanh Văn? Nghe thanh âm của Phật mà ngộ đạo gọi là Thanh Văn. Ðây là nói về hàng chúng sanh căn cơ Tiểu thừa được đức Phật giáo hóa lúc ban sơ. Khi đức Thích-ca mới thành đạo, Ngài giảng kinh Hoa-nghiêm, nhưng hàng Nhị thừa không hiểu, họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Tại sao có mắt mà không thấy? Bởi pháp này quá kỳ diệu, quá cao xa, quá to lớn. Kỳ diệu đến độ hàng Nhị thừa không thể hiểu được loại pháp không thể nghĩ bàn này. Lúc đó, Ngài hiện ra thân tướng Lô-xá-na ngàn trượng đứng bên cạnh các chúng sanh khiến cho  Nhị thừa chỉ như những đứa trẻ, không thể thấy được thân tướng cao tột của Phật. Ðây chính là:

仰之彌高,鑽之彌堅

瞻之在前,乎焉在後

                                           Ngưỡng chi di cao

                                           Toản chi di kiên

                                            Chiêm chi tại tiền

                                            Hốt yên tại hậu

Dịch nghĩa:

                                            Trông lên càng cao

                                            Ðục vào càng cứng

                                            Xem thấy ở trước

                                            Bỗng chốc ở sau.

       Ngẩng đầu lên xem thấy chẳng tới đâu, dùng khoan dùi lỗ chẳng đục nổi. Ngó nhìn phía trước, bỗng nhiên chạy về đằng sau. Ý nói rằng hào quang đó nguyên nó ở đàng sau, lại thấy chạy ra đàng trước. Ánh sáng bên trái lại chạy qua bên phải. Tương tự như trong kinh Lăng-nghiêm, khi đức Phật phóng quang bên trái, Tôn giả A-nan nhìn qua bên trái. Phóng qua bên phải, Tôn giả nhìn  qua bên phải, ngước nhìn phía trước, bỗng chốc ánh sáng chạy ra phía sau. Bởi pháp đó chẳng thể nghĩ bàn nên hàng Nhị thừa không thể tiếp nhận được, không có cách gì hiểu nổi trọn vẹn. Do đó mới nói, có tai mà không nghe được giáo lý viên đốn này (viên giáo và đốn giáo). Bởi vì pháp này quá thâm sâu, nên họ không hiểu, do đó đức Phật mới giấu cái lớn, bày cái nhỏ ra (ẩn đại thị tiểu), hiện thành thân một Tỳ-kheo già, cao 1 trượng 6 thước, mà giảng  pháp Tứ đế.

        Pháp Tứ đế gồm khổ, tập, diệt, đạo. Phật chuyển bánh xe pháp Tứ đế này ba lần: lần đầu là thị chuyển, lần thứ nhì là khuyến chuyển, lần thứ ba là chứng chuyển. Chuyển là nghĩa vận chuyển, như nói sáu nẻo luân hồi vận chuyển, vận chuyển tới, vận chuyển lui chẳng hạn. Cho nên gọi là ba lần chuyển pháp Tứ-đế.

        Thứ nhất: Thị chuyển trình bày về tánh chất của Tứ đế. Ðây là khổ, với đặc tính của nó là bức bách. Ðây là tập, tánh chất của nó là sự chiêu cảm. Ðây là diệt, tánh là khả chứng, có thể đạt tới. Ðây là đạo, có thể tu được.     

         Thứ hai: Khuyến chuyển có nghĩa như sau: Ðây là khổ, điều đó các người nên biết. Ðây là tập, nên chấm dứt nó. Ðây là diệt, các người phải chứng được. Ðây là đạo, các người phải tu theo.

          Thứ ba: Chứng chuyển thì có nghĩa như sau: Ðây là khổ, các người phải biết. Tôi đã biết rồi, không biết thêm nữa. Khổ là cái mà các người phải biết, còn như tôi thì tôi đã biết rồi, tôi không thể “đã có đầu lại thêm đầu” lại biết thêm nữa. Ðây là tập, các người phải đoạn trừ nó. Tôi đã đoạn trừ nó rồi, không đoạn trừ nữa. Tôi bảo các người phải đoạn trừ, còn tôi thì đã đoạn được chưa? Tôi đã đoạn trừ nó rồi, nên không phải đoạn trừ lần nữa, bây giờ là chờ đợi các người hãy đoạn trừ nó đó. Ðây là diệt, các người phải chứng. Tôi đã chứng, không cần phải chứng một lần nữa. Tôi đã chứng cái diệt này, tức là chứng được niềm vui Niết-bàn, tôi không cần phải chứng lại nữa, mà chờ cho các người chứng đó. Ðây là đạo, các người phải hành trì. Tôi đã hành trì rồi, không cần phải hành trì một lần nữa. Tôi đã tu qua rồi, không cần phải tu lại nữa. Như vậy là chứng chuyển, chứng minh tự mình chứng đắc rồi mới bảo người khác tu hành. Nếu tự mình không chứng thì không thể bảo người khác tu được.

         Pháp đầu tiên của Tứ đế là khổ. Quý vị cho rằng khổ đây là thật hay giả?   Chữ “đế” có nghĩa là chân thật. Khổ là một sự thật, chân khổ. Giống như tôi có một đệ tử, cô bảo bạn trai, khách trần như vầy: “Khách trần, hãy mau đi đi! Tôi đang khổ, nếu anh không đi thì tôi sẽ khổ lắm!” Khách trần nói về một vật của ý thức (an object of perception)  Ðây là trường hợp hiện thân nói pháp, thật là có chuyện như vậy. Nếu khách trần không đi thì thật đúng là rất khổ. Quý vị cho là việc này có kỳ quái quá không? Khách trần đi rồi thì sẽ bớt khổ.

           Khổ có ba loại: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Khổ cũng chia thành  tám loại: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ. Bốn thứ này thuộc về bổn thân chúng ta. Còn bốn thứ do ngoại cảnh mang tới, đó là: ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thịnh khổ. Ảnh hưởng của ngoại cảnh bên ngoài còn mang lại vô lượng thứ khổ.

        Chư khổ bức bách các tương công. Khổ đế gồm rất nhiều thứ khổ (chư khổ). Chúng khổ bức bách làm người ta ngộp thở không thể thở được. Chúng đều đến tấn công (các tương công), đè ép và đoạn hơi thở người ta khiến không chịu nổi. “Khách trần mau cút đi, Tôi khổ quá rồi.”  Ðó là khổ đế, chân khổ. Khách trần ào tới, sáu thức sáu trần ở đâu đâu cũng tấn công tới tấp đến quấy nhiễu, bao thứ khổ dồn tới, đã khổ lại thêm khổ. Ba khổ bức bách, tám khổ bức bách, vô lượng khổ cũng tới bức bách. Các thứ khổ đều đến bức bách người, cho nên nói như trong câu tụng ở trên.  

         Pháp thứ hai của tứ đế là tập đế. Tập đế là phiền não, hết thảy phiền não. Phiền não còn lợi hại hơn cả khách trần. Ở bên ngoài khách trần chỉ kích thích chút ít, nhưng một khi khách trần mà tấn công vào bên trong thì liền có phiền não phát sanh.

         Sao có phiền não? Ðó là vì ông chủ bị dao động bởi khách trần, đến nỗi ông chủ không còn làm chủ được nữa, không biết mình là chủ nên phát nóng giận, lại dấy lên phiền não. Quý vị thấy phiền não so với khách trần có lợi hại hơn không? Ðối với khách trần, quý vị còn có thể nói: “Khách trần! Xin bạn đi ngay cho! Bạn không đi thì tôi khổ lắm!” Quý vị có thể xua khách trần qua một bên, nhưng đối với ông chủ, quý vị làm sao có thể xua đuổi ông chủ đi được. Ông chủ đã ở ngay trong nhà của quý vị rồi, còn đi đâu nữa?

         Phiền não là một thứ tôi rất không muốn nói tới. Tại sao vậy? Khi giảng về phiền não, tôi chỉ sợ quý vị có thêm phiền não thôi. Trước khi tôi nói ra chắc quý vị cũng chẳng biết có bao nhiêu phiền não, và cũng chẳng hiểu chúng nó ra sao. Dù quý vị khởi sanh một cái phiền não, nhưng chẳng quan tâm, rồi nó cũng qua đi mà mình không hay biết. Nay nếu tôi giảng kỹ về phiền não, quý vị sẽ bảo: “Cái này là loại phiền não gì vậy? A! Cái này là cái đó đó... Thế là từ phiền não này quý vị lại thêm một cái phiền não khác nữa. Như vậy lại càng nhiều phiền não hơn. Bởi lý do này, nên dù tôi đã giảng kinh từ bao lâu nay rồi, tôi vẫn không hề nói có bao nhiêu phiền não cả.

         Có thể quý vị bảo rằng: “Thầy đã từng giảng qua rồi.”  Quý vị nghe hồi lúc nào vậy? “Thầy chẳng phải đã nói tới tám vạn bốn ngàn phiền não hay sao?” Ðúng vậy, tôi có nói tám vạn bốn ngàn phiền não, nhưng con số này quá lớn đi, nên tôi cũng không nói tên của từng món phiền não. Nay, tôi nói để quý vị nghe, quý vị sẽ biết tên từng phiền não một. Khi biết tên nó rồi, quý vị cũng sẽ dễ sanh phiền não hơn so với lúc trước, nên tôi không nói. Chỉ sợ quý vị dễ sanh phiền não.

Nhưng, nay thời cơ đã tới lúc, cơ duyên cũng đã thành thục hội đủ để ngày hôm nay nói thật nhiều về phiền não.

          Nhiều phiền não là nhiều đến bao nhiêu lận?  Hai mươi món phiền não, gọi là tùy phiền não. Tùy nghĩa là theo, theo gót. Theo gót ai? Ði theo quý vị và cũng đi theo tôi. Quý vị có phiền não thì phiền não theo quý vị, quý vị đi chúng đi theo. Tôi có phiền não, phiền não cũng đi theo tôi; người kia có phiền não, phiền não cũng bám theo như vậy. Ngoài ra còn có sáu loại phiền não căn bản.

        Trong hai mươi tùy phiền não thì lại có loại chỉ là tiểu phiền não, gồm 10 món; một loại trung phiền o gồm hai món; một loại đại phiền não gồm 8 món. Trong hai mươi tùy phiền não đó các vị muốn có bao nhiêu món. Quý vị muốn bao nhiêu, tôi cho quý vị bấy nhiêu. Quý vị muốn một cái, tôi cho một cái, muốn mười cái tôi cho mười cái, muốn mười lăm cái, tôi cho mười lăm cái, Toàn bộ hai mươi cái, đều cho quý vị hết cũng được.

Tiểu phiền não là gì? Mới đầu tôi có thể hình dung nó ra sao nhưng cần rất nhiều thời gian. Hơn nữa tôi muốn thật sự diễn tả cái phiền não này ra sao, trước tôi đánh quý vị một cái, đó chính là phiền não.

         Ðây là mười tiểu phiền não:

          1. Phẫn. Phiền não thứ nhất là phẫn. Phẫn là trạng thái bất bình, không bằng lòng. Cái đó chẳng phải là phiền não sao? Một trạng thái chán ghét đến cực điểm đó là phẩn. Quý vị có thích nó không? Nếu quý vị muốn thì quý vị mang nó đi. Tôi chẳng thích nó, nên tôi muốn đem tặng cho người. Vậy có ai muốn nhận nó chăng? Nếu không tôi đợi từ từ rồi lại đem tặng cho người khác.

          2. Hận. Tôi hận bạn chẳng hạn, tại sao tôi oán hận bạn đến thế? Thế nào là hận? Hận là đối nghịch của ái thương. Bởi đâu mà hận người vậy? Nguyên nhân vì thương người ta mà thương chẳng được, nên hóa thành hận. Tôi có một cô đệ tử có bạn trai thương yêu. Khi nghe cô này nói muốn xuất gia, cơn hận của anh bạn trai nổi lên, anh ta nói trong điện thoại: “Tôi hận cô!” làm cho cô này sửng sốt và hãi hùng.

          3. Não. Phiền não thứ ba còn lợi hại hơn, không phải chỉ hận, mà còn thêm não nữa. Chữ “não” có nghĩa cùng với khổ não, mà cũng cùng nghĩa với phiền não, và ảo nộ, não. Vô luận quý vị khổ não, phiền não hay não nộ, trạng thái nào cũng đều khiến quý vị thật không tự tại. Sao gọi là não? Viết theo chữ Hán, thì chữ “não” này do chữ não là đầu óc mà ra. Não làm cho quý vị đau đầu, cặp mắt cũng phát lửa đỏ. Cái đầu này không biết là lớn bao nhiêu?

Não phát sanh, não càng nhiều, đầu càng to. Não đến cực điểm sẽ làm quý vị xuất huyết não, đứt mạch máu đầu, mà chết được. Cho nên não rất ghê gớm, đầu to dần, to dần, lớn đến cực điểm, máu trên đầu chảy ra thì chết. Ðây là não của phiền não, vậy có ai thích cái phiền não này không? Nếu ai thích, nay tôi xin bố thí, cho họ cái phiền não đó!

         4. Phú. Phú nghĩa là phú tàng, che trùm, che dấu, như trong câu thiên phú địa tải, trời che đất chở. Phiền não này lợi hại hơn các món phẫn, hận và não  đã nói trên. Ba thứ này chỉ biểu hiện ở bên ngoài, còn phú thì không muốn người ta biết, tự mình che khuất bên trong, do đó mới có tên là phú tàng. Phú làm tổn hại chính mình rất nhiều. Tổn hại ra sao? Phú làm thương tổn bao tử. Dân Mỹ ít khi bị chứng này. Người Trung Hoa thường hay bị, nhất là trong số những người xuất gia. Tại vì sao? Số là, phiền não này bị che dấu ở bên trong, không lộ ra ngoài cho ai thấy. Bởi cố nén nó bên trong dạ nên sanh ra bệnh ở bao tử. Ai bị bệnh bao tử thì chúng ta biết là người đó đã có loại phiền não này. Lối nói này chính xác nhất, tôi ở trong vị trí này mà nói cho quý vị nghe đó.

         5. Cuống. Cuống là nói dối. Theo cách viết chữ Hán thì trong chữ “cuống”() có chữ “cuồng” (), và bên cạnh có bộ “ngôn”() nghĩa là ngôn ngữ. Nguyên là trong lòng nó vốn bất an, nhưng một khi có ai hỏi điều chi làm nó phiền não, thì nó nói dối là không có: “Tôi đâu có phiền não gì! Ai là người phiền não chớ?” Nó còn hỏi lại quý vị:“Ai sanh phiền não?” Chính là lửa vô minh đã bùng lên ở trong lòng nó, như muốn đốt cả trời đất này. Nhưng khi quý vị hỏi nó thì nó vẫn một mực nói dối là không có phiền não.

         Tôi vốn không muốn giảng cái phiền não này, sợ có ngày hỏi quý vị, quý vị cũng lại nói dối. Nếu không giảng, quý vị sẽ không hiểu cách thức nói dối ra sao thì sẽ khỏi phải nói dối.

       Vậy là trước tiên có phiền não “phú”, là sự che dấu, sau đến cuống tức là nói dối.

         6. Siểm. Siểm là nịnh hót. Tỷ như trong lòng quý vị vốn không ưa người đó, nhưng trước mặt người ta quý vị vẫn nói một cách ngọt ngào. Hiện nay có câu nói rất phổ biến là “bợ đít”. Cũng như trường hợp một anh nghèo trông thấy ai giầu có, liền chào hỏi: “Ồ! Ông Trương đó hả, nay ông tính đi đâu vậy!” Ðại khái là cái lối siểm nịnh đó.

         7. Kiêu. Kiêu là kiêu ngạo.  Khi có ý nghĩ: “Anh có tiền thì mặc anh, không ăn nhằm gì đến tôi. Anh không đáng cho tôi quan tâm. Xem đây! Trên đời này tôi là số một. Thân tôi cao như núi Tu-di thì việc gì tôi phải lịch sự với anh chớ?” Phiền não, siểm phía trước, nay trở thành kiêu ngạo. Quý vị có giỏi thì nịnh hót đi, còn tôi thì chẳng coi ai ra gì; nên nịnh hót đổi sanh kiêu.   

         8. Hại. Hại là làm hại, làm cho tổn hại.  Có ý nghĩ như: “Anh có tiền, có thế lực, tôi sẽ cho anh một nhát dao, thử coi anh còn đáng giá gì nữa không?” Ðây là ý tưởng hại người khác, tuy chẳng phải là hành động thực, mà chỉ là những ý nghĩ, ý nghĩ muốn hại người.

         9. Tật đố. Tôi chưa có dịp nói cho các vị loại phiền não này, bởi mỗi người quý vị đều đã có nó từ lâu rồi. Quý vị đã lấy trộm được nó từ đâu, chẳng ai biết. Tên nó chính là tật đố, hay lòng ghen tỵ. Cho nên tôi có nói qua là rất nhiều người có loại tật đố này. Quý vị  ghen với người ta, người ta ghen tỵ quý vị. Nhưng quý vị không biết tật đố từ đâu tới. Cho nên tôi nói quý vị đã lấy trộm, vì không rõ ràng về xuất xứ của nó. Phàm vật gì ta có được mà không rõ ràng, hay mơ hồ về lai lịch của nó, đều cũng có thể coi như là đồ lấy cắp. Nay tôi nói rõ, để các vị biết rằng chính nó ở trong danh sách của mười tiểu phiền não.

        10. Xan. Xan là san tham hay là bỏn xẻn. Quý vị chẳng muốn bỏ ra bất cứ một món gì mà quý vị chẳng ưa bố thí. Quý vị nắm trong tay một đồng tiền, quý vị nắm thật chặt, nắm chắc quá khiến tiền chảy ra thành nước. Lúc đó quý vị kêu lên: “Tiền của tôi biến mất rồi. Tôi chưa xài nó mà sao nó chạy đi đâu mất rồi?”

         Vậy là tôi đã giảng xong về 10 tiểu phiền não.

        Hai món trung phiền não là vô tàm và vô quý, tức là không biết xấu hổ, hay không biết thẹn.

        Chữ  “tàm” () theo cách viết chữ Hán thì gồm chữ  “trảm” (    ) và bộ “tâm” () ở bên cạnh. Trảm là chém, như chém đầu, chém đứt - trảm đoạn - chém đứt phiền não chẳng hạn.  Có phiền não này - vô tàm (không xấu hổ) - thì khi quý vị làm một điều sai quấy, quý vị không cho đó là sai mà quý vị vẫn cho việc làm của quý vị là đúng, do đó mà quý vị không biết hối cải. Chữ tàm cũng là trong tâm nên đoạn phiền não.  Nếu quý vị không đoạn nó, đó cũng gọi là vô tàm, trong tâm có một loại tâm sát khí, nếu không cải đổi đó thì là vô tàm. Chữ tàm trong tiếng Hoa là không biết xấu hổ. Tại sao gọi là xấu hổ? Xấu hổ là không dám gặp người. Quý vị làm chuyện không được quang minh chính đại lẽ ra không còn mặt mũi nào thấy mọi người, nhưng quý vị vẫn không cho mình là sai, quý vị lại còn bảo: “Ðiều đó có quan hệ gì? Người ta cũng làm thế đó!”  Rồi quý vị tìm lý lẽ tự làm luật sư để tự bào chữa cho quý vị, quý vị tự bảo rằng mình là đúng, lý trực khí tráng, nghĩa của vô tàm là như vậy.

           Chữ “quý” () trong vô quý thì lấy từ chữ “quỷ” (   ) ghép vào bộ “tâm”. Tâm của quý vị không quang minh, vậy mà sự không quang minh đó vẫn được quý vị coi là phải. Như vậy gọi là vô quý. Quý là thẹn. Tỷ như trong lòng có điều gì đáng hổ thẹn, quý vị phải xin lỗi người ta, nhưng quý vị không xin lỗi, lại còn nghĩ rằng mình chẳng có điều gì phải xin lỗi người.

         Vô tàm và vô quý là hai loại trung phiền não.

         Còn đại tùy phiền não thì có tám món. Trước hết là:

         1. Bất tín. Quý vị chắc nghĩ không ra, bất tín lại là phiền não. Người nào có loại phiền não này thì quý vị nói gì họ cũng chẳng tin. Nói sai họ không tin đã đành, mà nói đúng họ cũng chẳng tin, nói cái gì, họ cũng chẳng tin hết. Dù quý vị có nói như trên trời rải hoa, đất mọc hoa vàng, nói hay tới cỡ nào đi nữa, họ cũng như chẳng nghe qua, cũng vô ích. Quý vị nói có đạo lý, họ không tin;  nói không có lý, họ cũng không tin. Quý vị nói nhiều một chút, cũng không tin, nói ít một chút cũng không tin. Quý vị giảng về có, giảng về vô, giảng về không, giảng về bất không, tất cả đều vô hiệu quả, họ đều chẳng tin. Nói tóm lại, tông chỉ của họ, chính là không tin (bất tín).

          2. Giải đãi. Chắc không một ai nghĩ rằng giải đãi lại là một loại tùy phiền não cỡ lớn. Giải đãi là thế nào? Ðó là sự lười biếng. Lười biếng chẳng tinh cần học các pháp môn. Bất luận làm gì y cũng lười biếng, thậm chí đến ăn cơm mà   cũng uể oải, ăn một miếng nhai cả 5 phút mới ăn miếng thứ hai, đến khi ngủ cũng tỏ ra lười biếng. Làm gì thì mới không lười vậy? Chỉ có lúc nào cùng với bạn bè ngồi đánh “mạt chược” thì mới thấy họ có tinh thần.

         Có người lười biếng trong việc học Phật pháp, trong việc tu hành. Không những chỉ riêng tự thân họ lười biếng, mà họ còn muốn làm cho người khác cũng lười biếng. Không những họ ảnh hưởng người khác lười biếng. Họ cốt không muốn cho ai làm chuyện gì cả. Giống như tôi có một đệ tử, y ngủ cả 8 tiếng đồng hồ. Tại sao vậy? Vì thấy người bên cạnh thức dậy sớm nên y muốn ngủ thay cho người đó. Ðây là một loại làm biếng. Sự giải đãi này mang đặc tính phiền não. Y nghĩ bụng rằng: “Các người tu hành, tôi chẳng tu hành. Cái nết lười tu của tôi sẽ khiến cho các người cũng sẽ phải theo tôi. Cho các người cứ tinh tấn tu hành đi! Tu trong hai ngày, rồi, chưa tới ngày thứ ba, các người cũng sẽ giải đãi cho coi!”  Do đó, họ lười biếng đã đành, mà còn ảnh hưởng luôn tới người khác cũng lười biếng theo họ.

          3. Phóng dật. Phóng dật hay còn gọi là phóng đãng. Phóng nghĩa là buông thả, dật nghĩa là tản mạn. Ðây là thái độ buông thả, không theo phép tắc, chẳng những chính mình không theo quy củ, mà lại còn mong tất cả mọi người cũng buông thả như vậy.

         Chẳng hạn y thích uống rượu, y lại muốn lôi tất cả mọi người đến biển rượu, để cùng tắm với rượu. Y làm bất cứ chuyện gì, y cũng muốn lôi người khác đi theo y. Y đi khiêu vũ, y kéo tất cả đến vũ trường; y thích coi phim ảnh, y sẽ rủ tất cả những ai y quen biết đến các rạp chiếu bóng;  y thích xuống địa ngục,  y lôi tất cả xuống địa ngục; y muốn làm quỷ đói, y nói thật hay về loài quỷ đói, để mọi người đi cho mau, cả bạn bè thân thích của y, y lôi hết đến cảnh giới ngạ quỷ. Y thích làm súc sanh chẳng hạn, y bảo: làm người đủ rồi, làm thân con chó hay hơn. Hãy coi con chó, nó không phải làm việc, lại được người cho ăn, được người săn sóc, vậy không phải là tốt lắm sao! Chẳng riêng y thích làm kiếp chó, y còn kéo theo cả bạn bè thân thuộc theo y làm thân con chó. Phóng dật là nghĩa như vậy.

         4. Hôn trầm. Cái này đến với bất cứ ai. Tại vì sao? Ðương ngồi nghe kinh, đương ngồi thiền, rồi như cảm thấy như mình vào định. Thật ra, đó chỉ là hôn trầm, còn nói: Tôi nghe kinh rất rõ ràng mà, nhưng đầu thì gục xuống muốn làm bạn với chân. Ðó là hôn trầm. Hôn trầm tức là làm một chuyện gì mà tinh thần không được phấn chấn, cảm giác như buồn ngủ. Bảo là ngủ nhưng không phải là ngủ thật; bảo là không ngủ nhưng đầu óc không được tỉnh táo, nghe như có tiếng giảng: “Tôi nghe như vầy” thật lớn tiếng, nhưng thật ra “Tôi có nghe gì đâu!” Ðó gọi là hôn trầm.

         5. Trạo cử. Trạo là lắc, lắc đầu. Cử là đưa lên. Như vậy nghĩa là gì? Tỷ dụ quý vị đương ngồi nghe kinh. Bỗng dưng đầu quý vị dao động. Chẳng phải giống như ngài A-nan khi thấy Phật phóng quang ánh sáng qua lại, đầu ngài cũng đảo qua trái đảo qua phải nhìn theo ánh sáng. Ở đây chẳng có phóng quang, chính đầu quý vị tự dao động mà cũng không biết, ai bảo nó dao động. Ðó là trạo cử.

        Lại còn trường hợp trong tâm đương có phiền não mà quý vị không buông bỏ được. Phiền não vẫn cứ phát sanh khiến tâm quý vị chẳng an. Quý vị không biết cái nào là tốt, nghe đoạn kinh này thì không thấy hứng thú, mà ngồi thiền thì tại chỗ ngồi đó như có kim châm vào bàn tọa, không cảm thấy an lạc chút nào. Ðó là trạo cử. Nếu tôi không giảng điều này, chắc quý vị không biết rằng trạo cử chính là một bệnh tật, nó vốn là một trong tám loại đại tùy phiền não.

         Quý vị phải làm sao với cái Trạo cử này đây? Trạo cử được dịch là rớt xuống, và nhặt lên. Quý vị bỏ nó xuống rồi nhặt nó lên, bỏ xuống rồi lại lượm trở lên nữa. Quý vị nên làm sao với loại phiền não này? Quý vị nên bỏ nó xuống, đừng nhặt nó lên, nó sẽ rớt ra - quý vị nên vứt nó đi là xong.

         6. Thất niệm. Thất nghĩa là mất, tiêu. Niệm là ý nghĩ. Bởi chữ “thất” là mất, nên rất có thể quý vị nghĩ rằng như vậy là tốt, là không có vọng tưởng nữa. Vậy sao ở đây lại cho rằng thất niệm là phiền não? Thất niệm ở đây là mất chánh niệm. Tỷ dụ quý vị muốn niệm Phật. Niệm ba câu: “Nam mô A-di-đà Phật! Nam mô A-di-đà Phật! Nam mô A-di-đà Phật!” rồi quên mất không nhớ mà niệm nữa. Như muốn niệm chú Lăng-nghiêm chẳng hạn, quý vị niệm: “Diệu trạm tổng trì bất động tôn, Thủ-lăng-nghiêm Vương thế hy hữu... Ồ! Rồi sao nữa nhỉ!” Lại như trường hợp đại chúng đang tụng kinh, đọc chú niệm niệm rồi tất cả tự nhiên dừng lại vì đều không biết tụng đến đoạn nào rồi. Ðây không phải biểu thị của nhập định, vậy là gì? Ðó chính là thất niệm. Tụng kinh hay trì chú mà thất niệm, lúc đó chẳng phải mọi người đều không niệm, không lên tiếng, nhập vào cảnh giới vô thanh tam muội mà đó chính là thất niệm rồi. Thất niệm là như vậy! Bây giờ quý vị hiểu rồi chứ!

         7. Bất chánh tri. Bất chánh tri tức tà tri, tà kiến, không có chánh tri chánh kiến hay hiểu sai lạc. Cái điều đúng mà nói là sai, cái điều sai mà nói là đúng. Ðen thì bảo là trắng, trắng thì bảo là đen, tốt thì bảo là xấu, xấu thì bảo là tốt. Giống như một số đệ tử tôi nói rằng, ăn nhiều là tu khổ hạnh, cho nên cứ cố ăn thật nhiều, đó là tu khổ hạnh. Ðã từ lâu, họ đều nói như vậy. Tôi mặc kệ họ nói gì thì nói. Tôi cũng không quản thúc quý vị. Quý vị khổ hạnh thì khổ hạnh. Ngọt (điềm) hạnh thì ngọt hạnh. Muốn hạnh gì cứ cứ hành theo. Nếu cho như vậy là khổ hạnh tức là bất chánh tri, một cái biết sai lạc.

         8. Tán loạn. Tán loạn là không có định lực. Như một tấm gương chiếu ra bên ngoài, như một máy hình chụp: trái chụp một cái, phải chụp một cái, đều chụp các thứ bên ngoài, toàn là ngoại cảnh mà không quay lại chụp vào bên trong của chính mình. Ðây là không có định lực nên tâm tán loạn và được trị bởi sự tu Thiền định.

         Như đã trình bày ở trên, tất cả là 20 loại tùy phiền não. Trong đó có tám loại đại, hai loại trung và mười loại tiểu, hợp lại là 20.

         Bây giờ đến 6 loại phiền não căn bản, mà tôi chắc là quý vị đều quen thuộc với chúng, coi chúng như bạn hữu lâu năm.

           - Ðầu tiên là tham. Tham của quý vị, tham của tôi, và tham của họ.  Tuy chúng giống nhau – ba trong một và một trong ba. Người không giống nhau, nhưng tham của họ thì như nhau. Tham tuy cùng một loại nhưng cũng có thể nói là không giống nhau. Bạn tham nhiều hơn tôi một chút, tôi tham ít hơn một chút. Hoặc là quý vị tham ít một chút, tôi tham nhiều một chút. Mỗi người đều có cái số lượng tham riêng.

Cái tham đã hại chúng ta. Hại như thế nào? Quý vị hãy còn chưa biết sao! Không biết bị nó hại như thế nào à? Vậy tại sao đến nay quý vị còn chưa thành Phật? Tại sao quý vị ngu si đến như thế và không có trí huệ? Bây giờ chắc quý vị đã hiểu rồi chớ? Nguyên nhân là cái tham này, lòng tham không biết chán, không biết sợ nhiều đối với bất cứ thứ gì: không sợ nhiều tiền, không sợ nhiều của cải vật chất, cả đến thứ dơ bẩn cũng không sợ nhiều, phiền não cũng không sợ nhiều, càng nhiều càng tốt. Nói theo lối Hàn Tín điều động binh là “đa đa ích thiện”, tức càng nhiều càng tốt. Hàn Tín là một vị tướng đời nhà Hán, ông có tài dùng binh là: binh sĩ càng đông thì càng tốt. Càng nhiều càng tốt chính là một sự biểu hiện của tham.

        - Thứ hai là sân. Sân chính là cái vô minh của quý vị, một thứ lửa giận, bùng lên như cái pháo nổ thăng thiên. Pháo còn là nhỏ, thời nay người ta phát minh bom nguyên tử, bom khinh khí vô cùng lợi hại thì cái vô minh và sân tâm của con người cũng ghê gớm như vậy. Sân là một loại nóng giận, là lửa, lửa sân.

         - Thứ ba là si. Nguyên nhân nào khiến chúng ta cứ sai lầm mãi mãi?   Chính là si. Bởi vì si cho nên có những việc không nên làm mà chúng ta cứ làm, điều không đáng học mà chúng ta cứ học. Thí dụ như hiện nay có một số thanh niên dùng chất ma túy, là một điều mà ta phải tránh. Họ uống vào một viên ma túy, nuốt xong còn muốn nuốt nữa, lại muốn thêm một viên nữa, mà họ không hiểu tại sao họ cứ thích uống thêm. Lý do là vì si tâm. Họ nghĩ rằng trong hang động kia sẽ hiện ra một thế giới khác[10], uống viên ma túy vào họ sẽ phát minh ra một điều sáng chế mới mẻ, giống như ông Kha-luân-bố năm xưa tìm ra đại lục mới. Họ muốn khám phá ra một đại lục mới bằng cách uống thuốc mê hồn này. Như vậy chẳng phải là ngu si hay sao? Chính là ngu si mà bị cái chữ ngu chi phối khiến cho quý vị trở thành điên điên đảo đảo.

         - Thứ tư là mạn. Mạn là ngã mạn, kiêu mạn cũng là một phiền não.

         - Thứ năm là nghi. Sanh ra một thứ hoài nghi, nghi ngờ, không tin. Ðã có nghi thì cái gì cũng nghi: nghi quỷ nghi thần, nghi phải nghi trái, nghi người nghi mình. Ðối với chính mình cũng hoài nghi, đối với người cũng ngờ vực. Ý nghĩa đã rõ ràng mà quý vị vẫn sanh nghi, không rõ ràng cũng hoài nghi như vậy.

         - Thứ sáu là tà kiến. Tà là không chánh, không có chánh kiến. Tri kiến không chánh đáng, có tà tri tà kiến.

         Tóm lại, tôi đã giảng xong các thứ phiền não, tôi mong rằng mọi phiền não của chúng ta cũng chấm dứt cho rồi. Chúng ta đừng nên coi chúng là thân thích, là bè bạn, mà phải vứt bỏ chúng đi. Cũng đừng giúp chúng tạo thành nghiệp tội nữa. Quý vị nuôi dưỡng phiền não thì phiền não sẽ giúp quý vị tạo tội, đưa tới kết quả là quý vị lãnh đủ nghiệp báo. Trong lúc đó phiền não là Ma-ha-tát chẳng quản tới ai[11]. Quý vị có mắc tội hay không, chịu quả báo hay không chịu quả báo, chuyện đó mặc quý vị, mà  nó chuồn mất. Lúc quý vị lãnh tội, phiền não đã trốn đi đàng nào mất biệt rồi! Quý vị đọa địa ngục, phiền não cũng chẳng hề theo quý vị.

        Tụ tập chiêu cảm tự bất đồng. Sáu loại phiền não căn bản cùng với hai mươi tùy phiền não đều nằm trong Tập đế, đế thứ hai của pháp Tứ đế. Tụ tập tức là họp lại. Chiêu cảm là chiêu cảm cái gì? Chính là chiêu cảm phiền não.

         Do phiền não mà chúng ta không có trí huệ chân chánh, vậy quý vị muốn có trí huệ chúng ta phải hàng phục phiền não trước tiên. Tuy nhiên, công việc đầu tiên là phải biết nhận diện ra phiền não, nếu không nhận ra nó là phiền não, thì quý vị hàng phục cái gì? Hàng cái nào vậy? Ðây cũng như ta muốn giết giặc, thì ta phải biết giặc ở đâu và phải nhận ra diện mạo của chúng. Nếu không, chúng có thể ở trước mặt ta mà ta còn tưởng chúng là người quen thuộc. Tại sao? Vì quý vị không biết rằng chính chúng là giặc đã trộm đồ đạc và cướp của cải vàng bạc của ta. Phiền não cũng giống như vậy. Ðó là lý do chúng ta phải nhận thức ra phiền não, không để cho cảnh giới phiền não lôi cuốn chúng ta, đặng chúng ta có thể hàng phục chúng.

Pháp thứ ba của tứ đế là Diệt đế.

        Diệt có nghĩa là bất động, cũng có nghĩa là như như.

        Duy diệt khả chứng cứu cánh lạc. Chứng được Diệt đế (Niết-bàn), lúc đó mới có được khoái lạc chân chánh. Cho nên kinh Phật nói bốn đức của Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh. Chứng được thường, lạc, ngã, tịnh chính là chứng quả tịch diệt, nhưng quả này vẫn là một quả của hàng Tiểu thừa, chưa phải là Diệu quả cứu cánh của Ðại thừa. Nói cách khác, đây là một quả mà A-la-hán chứng một phần chân lý - dứt được phân đoạn sanh tử nhưng chưa dứt được biến dịch sanh tử.

        Phân đoạn sanh tử là thế nào? Phân là một phần, đoạn là một khúc, một đoạn. Phân là quý vị có phần của quý vị, tôi có phần của tôi, mỗi người đều có một phần. Ðoạn là quý vị có một đoạn thân của quý vị, tôi có đoạn của tôi, nó có một đoạn thân của nó. Có người cao khoảng 6, 7 thước, cũng có người cao 5 thước, hay cao 3, 4 thước. Cho nên mỗi người có kích thước cao thấp không giống nhau. Cũng có nghĩa rằng khoảng cách từ lúc sanh ra đến lúc chết coi như là một đoạn, hoặc do từ hôm nay đến ngày mai cũng gọi là đoạn, một khoảng của khung thời gian. Như vậy phần đoạn sanh tử là chung cho tất cả phàm phu. Hàng nhị thừa đã dứt được phân đoạn sanh tử, chứng đắc niềm vui của tịch diệt.

         Khi chứng được niềm vui tịch diệt, là lúc phá kiến hoặc và tư hoặc. Ðối trước một cảnh giới nào đó mà ta khởi tâm tham ái, gọi là kiến hoặc, tức bị cái sở kiến mê hoặc. Còn tư hoặc là mê lầm về đạo lý rồi khởi phân biệt. Quý vị đối với cái đạo lý này không rõ ràng nên khởi tâm phân biệt. Loại tâm phân biệt này một khi đã phát sanh thì càng phân biệt và càng xa đạo lý, càng xa đạo lý lại càng phân biệt, kết quả đi vào con đường lầm lạc. Quý vị vào đường rẽ mất.

        Chứng được niềm vui tịch diệt, nghĩa là dứt được kiến hoặc và tư hoặc, nhưng gốc vô minh thì vẫn chưa dứt được. Tới giai đoạn này hành giả chỉ mới hàng phục vô minh mà chưa đoạn được hẳn gốc vô minh. Chẳng cứ hàng A-la-hán chưa đoạn vô minh mà đến các bậc Bồ-tát Ðẳng giác cũng còn lại một phần cuối cùng của sanh tướng vô minh, chưa phá hết được. Cho nên, chứng được quả vị tịch diệt rồi mà vô minh vẫn còn, chẳng qua là nó nằm yên đó, không xuất hiện mà thôi. Tóm lại, đây mới dứt được phần đoạn sanh tử, còn biến dịch sanh tử vẫn chưa phá xong.

        Sao gọi là Biến dịch sanh tử? Biến dịch sanh tử là nói về các niệm khởi sanh ra của chúng ta. Niệm sau nối theo niệm trước, niệm sau nữa lại tiếp nối theo, niệm niệm triền miên không ngưng nghỉ. Một niệm sanh là một lần sanh, một niệm diệt là một lần tử, do đó mới gọi là biến dịch sanh tử. Bởi biến dịch sanh tử, niệm niệm không ngừng thì sao lại gọi là sanh tử? Bởi loại cảnh giới này chưa tới được trạng thái định chân chánh. Vì chân chánh định thì ngay niệm lự cũng không còn. Trong cảnh giới Sơ thiền, mạch ngưng lại không đập, trong Nhị thiền thì hơi thở ngừng. Ðến Tam thiền thì mọi thứ niệm chấm dứt, Tứ thiền thì hoàn toàn vô niệm. Nên nhớ rằng, vào cảnh giới Tứ thiền chưa phải là chứng quả, mà chỉ là một chặng trong quá trình tu hành, chưa phải tu đắc quả cao. Thông thường đa số người tu đạo có thể đạt đến cảnh giới này.  

        Cuối cùng là Ðạo đế. Diệt nên phải chứng, “Ðây là Ðạo, quý vị phải tu theo”.

         Trước khi nói về vấn đề này, chúng ta hãy đem chữ “đạo” giải thích một cách chi tiết. Chữ đạo này theo cách viết chữ Hán thì dùng chữ tẩu (đi), có nghĩa là muốn quý vị hành. Chữ này có nghĩa là đi, là bộ hành, ngụ ý rằng, đạo là phải tu hành. Không tu hành thì đạo cũng vô dụng. Quý vị phải y theo đạo mà tu hành, vì đạo là hành, chẳng hành sao thành đạo? Nếu không tu hành, thì đạo là đạo, quý vị vẫn là quý vị, cả hai không hợp thành một được. Trái lại, nếu thực sự y pháp tu hành, thì đạo chính là quý vị, quý vị là đạo; đạo và quý vị không phân ra được, chẳng rời nhau. Quý vị muốn tu đạo ư? Vậy quý vị phải thực hành, theo đúng như phương pháp trong đạo mà thực hành. Cho đến nói về “đức”, thì ở đây quý vị cũng phải hành, chẳng hành thì  không có đức. Chẳng phải chỉ có nói mà thôi, như từ sớm đến tối quý vị cứ nói hoài “đức hạnh, đức hạnh, đức hạnh!”, nói ở miệng mà thực tế chẳng làm gì cho đức hạnh, hoặc là miệng nói đức mà thân thì cứ tạo tội, tức chẳng có đức nào hết, giống như người ta treo đầu dê để rao bán thịt chó. Quý vị nói về đức thì quý vị phải thực hiện việc có đức hạnh, cũng như quý vị muốn tu đạo thì quý vị phải y chiếu phương pháp mà tu hành.

        Chữ tẩu   ,  (đi) thêm vào chữ “thủ” () thành chữ đạo (). Thủ là cái đầu.

        Ý nói, tu hành là một sự việc quan trọng bậc nhất đứng hàng đầu trên thế giới này. Quý vị muốn dứt đường sanh tử thì quý vị phải tu đạo. Nếu không muốn dứt sanh tử, tức không tu hành. Dứt sanh tử chẳng phải là sợ sanh tử. Kẻ nào sợ sanh tử thường cảm thấy ham sống nhưng lại rất hãi hùng khi sắp chết. Dứt sanh tử là muốn thoát sanh tử chớ không phải sợ sanh tử. Quý vị muốn liễu sanh thoát tử thì việc đầu tiên là tu đạo, vì trong chữ “đạo” có chữ “thủ”. Nếu không tu đạo tức không thể thoát sanh tử.

        Bây giờ, chúng ta hãy phân tích riêng chữ “thủ” (). Phía trên chữ “thủ” có hai chấm và một cái gạch ngang. Hãy tạm gác phần này ra ngoài và quan sát phần ở dưới, đó là chữ “tự” (), nghĩa là tự mình. Ðúng như vậy, tu đạo là chính tự mình phải tu, không nhờ người khác tu giùm cho mình. Chẳng phải nói: “Bạn phải tu, bạn phải dứt sanh tử, bạn phải làm đức hạnh!” Chẳng phải nghĩa đó, mà là chính quý vị phải tự mình và coi như việc đầu tiên quan trọng nhất của mình.

       Gạch ngang trên chữ “tự” là chữ “nhất” () nghĩa là một.  Một, có dụng đồ gì? Toàn bộ thế giới này đều từ chữ “nhất”(một) mà sanh ra. Làm sao mà bắt đầu? Một là cái bắt đầu, có một sau mới có hai, có ba, có bốn; có bốn rồi mới có năm cho đến vô lượng trăm ngàn vạn vạn vạn nhiều như vậy. Tất cả đều từ con số một sanh ra. Cho nên một là vô lượng vô lượng cũng là một. Không có một thì không có vô lượng và ngược lại. Tôi nói đạo lý này chắc không ai có cách gì phản đối. Tại vì sao? Bởi tôi biết số, tôi hiểu số học và trong số học thì tất cả đều bắt đầu từ con số một.

        Vậy, một là vô lượng, vô lượng là một. Nay, chúng ta chẳng muốn một, mà cũng chẳng muốn vô lượng; không một, cũng không vô lượng. Vậy thì biến thành cái gì? Chẳng thành cái gì hết, thành con số không. Cái con số không đó là một cái vòng tròn, trong tiếng Anh nó là Zero 0 này, nó bao la vạn hữu bao la, Chân không cũng ở trong số không này mà Diệu hữu cũng ở trong đó. Số không này từ đâu mà có? Từ sự biến dạng của chữ “nhất” một ()  nói ở trên. Quý vị lấy chữ “nhất” vẽ cong lại thành cái vòng là số không (O); quý vị mở số không ra thì nó thành chữ “nhất”. Số không chính là bản thể của chữ “nhất”, và cũng chính là bản thể của hết thảy mọi thứ trong trời đất này. Nó là đại quang minh tạng - kho ánh sáng – cũng là Như Lai tạng tánh, tánh của Như-lai tạng, tức Phật tánh. Nói khác Phật tánh là cái vòng số không (O).

         Một buổi chiều tôi đi trên đường với một đệ tử, nghe một chú bé hỏi mẹ chú rằng:

- Cái gì không có đầu và không có đuôi?

- Mẹ không biết!

- Là một vòng tròn. 

Tôi hỏi chú nhỏ:

- Tại sao con có ý nghĩ là một vòng tròn?

Chú bé không trả lời.

        Số không cũng là đại biểu cho Như Lai Tạng tánh và cho tất cả mọi thứ sinh sinh hóa hóa trên thế giới này, Chân không Diệu hữu, Diệu hữu Chân không. Vòng số không chẳng có bắt đầu mà cũng không có điểm cuối. Nếu phá cái vòng số không ra, nó sẽ biến thành chữ “nhất”. Chữ nhất (một) là gì? Tức là vô minh. Có chữ một này là có vô minh, khi chưa có một thì chỉ là vòng tròn; khi chưa phá vòng tròn thì lúc đó là Như-lai tạng tánh. Chữ “nhất” là khởi thủy của vô minh. Cho nên lúc nảy tôi nói, một là vô lượng, vô lượng là một. Một điểm phiền não sanh ra vô số phiền não, và suy ra thì vô lượng phiền não cũng bởi từ một điểm phiền não lúc đầu mà có. Tại sao chúng ta lại tạo tác bao nhiêu thứ hồ đồ? Chính là từ một điểm vô minh này. Bao việc hồ đồ tạo thành bao nhiêu nghiệp; bao nhiêu phiền não đều do cái “một” này mà sanh ra. Bởi vậy muốn tu đạo chúng ta phải phản bổn hoàn nguyên chữ “nhất” bảo nó quay về nguồn cội của nó là biến thành số “không”. Lúc đó chúng ta mới trở về nguồn là Như-lai tạng tánh, để quay về với Chân không Diệu hữu.

         Trên chữ “nhất” là hai chấm, tượng trưng cho một âm, một dương. Kinh Dịch nói:   

一陰一陽之謂道,偏陰偏陽之謂疾。

一陰一陽是個道  純陰就變鬼  純陽就變神 

“Nhất âm nhất dương chi vị đạo 

Thiên (lệch) âm thiên dương chi vị tật

Nhất âm nhất dương thị cá đạo

Thuần âm biến quỷ, thuần dương biến thần.”

Ðây có nghĩa là một âm một dương gọi là đạo. Nếu chỉ riêng âm, hay chỉ riêng dương thì đây là bệnh, vì thuần âm biến thành quỷ, thuần dương biến thành thần.

Hai chấm vừa nói cũng có thể coi như từ chữ “nhất” mà tách ra thành hai, ngụ ý từ vô minh mà sanh ra hai thứ kiến hoặc tư hoặc. Cho nên hai điểm là kiến hoặc và tư hoặc. Có kiến hoặc và tư hoặc mà sanh ra vô số các hoặc và không biết bao nhiêu là phiền não. Ðây đều là do từ cái chữ nhất đó sanh ra. Nếu chúng ta muốn trở về nguồn cội thì phải biến chữ “nhất” thành số không. Biến bằng cách nào? Chẳng khó khăn gì, chỉ cần ngày ngày dụng công tu hành, tham thiền tĩnh tọa, thì sẽ phản bổn hoàn nguyên, trở về nguồn, biến chữ “nhất” thành số không, biến thành bổn tánh đại quang minh tạng của mình, tức trở về bổn tánh là Như-lai tạng.

        Do vì quý vị không tin loại cảnh giới này, nên quý vị sống trong sự hắc ám. Nếu đủ lòng tin quý vị sẽ khôi phục lại kho ánh sáng của quý vị tức Ðại Quang Minh Tạng. Bởi không tin pháp môn này nên từ sớm đến tối, phiền não vô minh cứ bám theo quý vị. Vì bị chúng bám riết như vậy nên quý vị mới biến thành cái “thùng khí đen”, như danh từ thường dùng trong nhà Thiền. Ðó là một cái thùng bằng trúc, trong chứa làn khí đen. Nếu đủ lòng tin quý vị  sẽ khôi phục lại trí tuệ sẵn có của quý vị, trở về nguồn với Ðại Quang Minh Tạng. Nói cách khác, quý vị sẽ đạt được Ðại Viên Kính Trí, Bình Ðẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí và Thành Sở Tác Trí.

         Như quý vị thấy, tôi chỉ giảng chút ít về chữ “đạo”, chưa được một phần trong muôn phần. Nếu giảng kỹ sợ rằng chúng ta không đủ thời gian, bởi vì nó quá vi diệu cho nên nói không thể hết! Ðại sư Trí Giả chỉ giảng một chữ “diệu” không mà phải giảng trong 90 ngày [12]. Còn chữ “đạo” này nếu giảng tường tận thì không phải chỉ là 90 ngày, sợ rằng 90 năm cũng giảng chưa xong. Ðời tôi đâu được lâu dài như vậy, cho nên tôi chỉ xin giảng chút ít thôi.

         Tuy nhiên, tôi cũng nói thêm vài điều. Vừa rồi tôi nói một âm, một dương. Hai nét một âm một dương hợp lại thành chữ “nhân” () là người. Như vậy đạo chẳng phải ở trên trời, chẳng phải ở dưới địa ngục, cũng chẳng nằm trong cảnh súc sanh, hay quỷ đói, mà ở trong cảnh giới nhân gian đây, ở trong từng cá nhân một, chớ không phải từ bên ngoài đến. Ai ai cũng có thể tu cái đạo đó, nghĩa là tu thành Phật đạo. Bây giờ quý vị chưa tu thành Ðạo, nhưng có phải là cái Ðạo bị rớt mất không? Nó không mất đi đâu, bởi vì mỗi một người đều có đầy đủ cái đạo này.

        Nếu lấy hai chấm - một âm một dương - để nói về các biểu tượng trên trời thì một chấm là mặt trời, một chấm là mặt trăng. Nói về thân thể người ta thì hai chấm đó là hai con mắt.     

        Thị đạo ưng tu ngộ pháp không. Muốn tu đạo này quý vị phải có con mắt trí huệ. Người ngu không thể tu cái đạo này. Có trí huệ mới có thể tu cái đạo này đưa chữ “nhất” trở về nguồn, thành số không, tức là Như-lai tạng tánh, hay Ðại Quang Minh Tạng, cũng là Phật tánh mà quý vị và tôi đều có sẵn đầy đủ. Quý vị có thể khôi phục Phật tánh, ngay trong đời này thành Phật mà chẳng phải trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu phước huệ, cả trăm kiếp trau dồi tướng hảo, chẳng phải chờ đợi lâu dài như vậy, mà có thể tức khắc thành Phật. Vậy tại sao quý vị không thành Phật? Bởi quý vị không hiểu đạo này, quý vị không tu đạo này, cũng không ai dạy cho quý vị về đạo lý này, cho nên đến ngày nay quý vị vẫn còn phải sanh tử, hết sanh đến tử, hết tử lại sanh, lên xuống trong sáu nẻo luân hồi, quẩn quanh trong cái vòng tròn đó, bỗng chốc sanh trên trời, bỗng chốc ở dưới đất, bỗng chốc là quỷ đói, bỗng chốc là súc sanh, hốt nhiên ở thiên đàng, hốt nhiên dưới địa ngục, bỗng chốc làm thân a-tu-la, bỗng chốc lại làm người. Quý vị cứ như vậy trôi lăn mãi, không sao bước ra khỏi vòng này. Như phá được chữ “nhất” thì quý vị có thể trở về nguồn, quay về cội, về nơi Như-lai đại quang minh tạng, nơi chốn gốc bổn địa phong quang của quý vị, cũng là quê hương thật của quý vị vậy.   

          Trở lại câu tụng kệ “Thị đạo ưng tu ngộ pháp không”, Ðạo là phải tu học, mỗi cá nhân chúng ta phải tu, phải ngộ được lý nhân không, pháp không, cả hai đều không chấp trước cho nên mới nói như trong Kinh: vô khổ, tập, diệt, đạo đều nên không hết.

         Tam chuyển Tứ đế pháp luân vận. Tam chuyển Tứ đế, ý nghĩa này vừa được giảng xong. Pháp luân vận chỉ pháp Tứ đế luân chuyển tới luân chuyển lui.

         Thất giác bát chánh ý niệm cần. Thất giác là nói Thất giác chi, hay còn gọi là Thất bồ-đề phần. Bát chánh là Bát chánh đạo. Gom tất cả các pháp Bát chánh đạo, Thất bồ-đề phần, Ngũ căn, Ngũ lực, Tứ như ý túc, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, thì được ba mươi bảy món gọi chung là 37 phẩm trợ đạo.

         Thất bồ-đề phần gồm: trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phần, trừ giác phần, xả giác phần, niệm giác phần, và định giác phần. Hành giả phải y chiếu vào các phương pháp này để tu hành.

         Trạch pháp là thế nào? Nói đủ là trạch pháp giác phần. Trạch nghĩa là tuyển chọn, pháp là phương pháp, giác là sự hiểu rõ, cũng là nghĩa giác ngộ. Quý vị phải có con mắt chọn lựa (trạch pháp nhãn) đối với phương pháp tu hành. Có thế mới biết cái nào là pháp, cái nào chẳng phải pháp, biết phân biệt thiện pháp ác pháp, trắng pháp đen pháp, có một loại sức tuyển chọn. Quý vị   không thể lầm lẫn cho phải là trái, chánh pháp coi như phi pháp, lấy trắng làm đen, lấy thiện coi là ác. Nếu là như vậy, tức chẳng có trạch pháp giác phần. Tuyển chọn được rồi quý vị phải y chiếu pháp mà tu hành.

        Dốc lòng tu theo pháp gọi là tinh tấn giác phần. Tính tấn đứng hàng thứ nhì tiếp theo trạch pháp. Người tu còn phải biết thế nào là chánh tinh tấn và tà tinh tấn. Chánh tinh tấn là nói như ngồi thiền, trì chú, học giáo lý, hành trì giới luật, tu hạnh nhẫn nhục, các thứ công phu đều phải có một sự tinh tấn. Nếu không tinh tấn, thì nay ngồi thiền, mai không ngồi, nay trì giới, mai không trì giới, nay tu hạnh nhẫn nhục, mai không tu, đó là không có tinh tấn giác phần. Tinh tấn giác phần nghĩa là phải tu một cách đều đặn, ngày đêm cả sáu thời lúc nào cũng tinh tấn; đêm ba thời, ngày ba thời đều tinh tấn, không ngưng nghỉ.

         Có tinh tấn mới đạt được một vị thiền duyệt, gọi là hyû và nói đủ là hỷ giác phần. Quý vị tham thiền tới một mức công phu nào đó sẽ cảm thấy an lạc vô cùng, tự tại vô cùng, ở trong một trạng thái hết sức thoải mái, còn hơn cả sự đê mê khoái cảm của người hút thuốc phiện, hơn hết mọi thou, mọi việc quý vị làm và cảm thấy khoái lạc vô cùng. Ðó gọi là hỷ giác phần, cảnh giới của người ngồi thiền khi đạt tới trạng thái khinh an và thoải mái cùng tột. Tuy nhiên, có lúc cảnh giới này là chân thực, nhưng có lúc nó đưa hành giả tới trạng thái tẩu hỏa nhập ma. Tẩu hỏa nhập mà là sao? Ðây là trường hợp lúc tâm của quý vị khởi lên một sự chấp trước. Một cảnh giới nào đó qua đi, nhưng tâm quý vị tham luyến, muốn truy tìm, nhớ lại kinh nghiệm này, rồi chấp vào cảnh đó là thật, do đó ma vương chờ dịp này mà nhập vào. Nếu không chấp trước, ma vương chẳng làm sao phá quý vị được. Trong tâm quý vị đã chấp trước rồi, thì bất cứ cảnh giới nào quý vị chấp, ma đều hiện ra cho quý vị. Bây giờ phải làm sao? Quý vị phải áp dụng trừ giác phần, pháp thứ tư trong thất giác chi, quán chiếu thẩm tra các ác pháp để làm cuộc thanh lọc. Pháp nào không đúng phải trừ khử, chỉ giữ lại pháp chân chánh. Cái không đúng chính là cái quý vị đã chấp trước, cái đó quý vị phải trừ.

          Lúc quý vị trừ khử sự chấp trước là lúc áp dụng pháp xả, nói đủ là xả giác phần. Quý vị xả bỏ vọng tưởng chấp trước, nếu không quý vị sẽ không vào được tam-muội, không thể đắc được thất bồ đề phần.         

         Sau khi xả bỏ các vọng tưởng chấp trước là lúc quý vị phải bảo tồn, giữ lại niệm, là niệm tinh tấn. Nghĩa của tinh tấn đã nói rồi, quý vị phải bảo tồn chánh niệm, không lúc nào quên, nên niệm tư tại tư, niệm niệm không quên sự tu tinh tấn. Và có tinh tấn thì sẽ tới lúc quý vị chứng được định tức định giác phần. Như vậy là nói hết về Thất bồ-đề phần hay Thất giác phần.    

         Còn Bát chánh đạo thì bao gồm tám thứ:

         Thứ nhất là chánh kiến. Kiến đây là từ chữ ý kiến, cái thấy trong ý nghĩ của quý vị, cái thấy đó phải chánh, chánh đáng, tức kiến giải, sự hiểu biết của quý vị cũng phải đúng, phải chính xác. Cái thấy không đúng, khiến quý vị sẽ dễ bị đi vào lối rẽ. Còn như có chánh kiến quý vị sẽ đi vào đường chánh đáng ngay thẳng. Thế nào là gọi là chánh kiến? Thế nào là tà kiến? Thí dụ tôi bảo các vị phải học Phật Pháp vì Phật Pháp là chánh đáng nên chúng ta phải tu học. Ðó là chánh kiến. Còn tà kiến thì thí dụ như học đánh bạc, học lối du thủ háo nhàn, du thủ du thực, chơi bời phóng đãng, học lười biếng, học cách hại người, đó là tà kiến. Như vậy đủ thấy rằng chánh kiến rất là trọng yếu.

         Có chánh kiến rồi mới có sự nghĩ ngợi đúng đắn, tức chánh tư duy. Từ cái thấy của quý vị, giúp quý vị suy tư, biết sự việc nào là đúng, sự việc nào là sai. Thí dụ quý vị nghĩ rằng, tu học Phật Pháp là một điều rất phải, không sai trái, đó là chánh tư duy. Còn tà tư duy là sao? Như quý vị có ý nghĩ rằng, học Phật Pháp chẳng có ích lợi gì, vì nay là thời đại khoa học, giảng tới giảng lui Phật Pháp chỉ là khuyên mọi người làm việc lành, làm người tốt. Thực tế bây giờ ai là người tốt? Chẳng có ai hết. Toàn là những người xấu. Tôi thấy người ta chuyên làm những chuyện bậy bạ, vậy mà họ có tiền để tiêu xài, có rượu để uống, cái gì cũng có. Có ý nghĩ như trên cho rằng, tu học Phật Pháp chẳng hay ho gì, chính là động lực đẩy người ta vào con đường tà. Nếu có chánh tư duy, sẽ không phạm vào điều đó.  

       Có chánh tư duy, mới có chánh ngữ. Chánh ngữ là dùng những lời nói chánh đáng, giúp người ta không bước vào đường tà. Không nói những lời say (rượu), điên cuồng, mà nói lời đúng đắn, chính xác, khiến ai nghe cũng thấy hoan hỉ và vui vẻ làm theo.

       Có chánh ngữ rồi có chánh nghiệp, tức là kiếm một công việc làm chánh đáng, một chức vụ mà ai cũng công nhận là tốt, và không phải là các việc phạm pháp.

       Thứ năm là chánh mạng. Quý vị đã có nghề nghiệp chánh đáng nên sự sinh sống của quý vị cũng chánh đáng.

       Thứ sáu là chánh tinh tấn. Quý vị phải tinh tấn làm những việc chánh đáng, chớ không phải tinh tấn làm việc không chánh đáng.

        Thứ bảy là chánh niệm.

        Thứ tám là chánh định. Vậy là nói hết bát chánh đạo.

       Tứ như ý túc gồm có: dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý túc.

        Tứ niệm xứ gồm thân, thọ, tâm, pháp. Bốn nơi để quán. Ðó là quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.

         Tứ chánh cần gồm bốn thứ sau:

nói về mặt thiện

(1)  đối với căn lành chưa sanh thì làm cho sanh ra,

(2) căn lành đã sanh rồi thì làm cho nó tăng trưởng.

Còn về mặt bất thiện

(3) những điều ác chưa sanh thì không cho sanh khởi

(4) những điều ác đã sanh rồi khiến đoạn trừ, chấm dứt

        Ngũ căn gồm năm căn sau: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.

        Năm căn này tạo thành sức lực, gồm: tín có tín lực, tấn có tấn lực, niệm có niệm lực, định có định lực, huệ có huệ lực.

       Tổng kết lại, Ngũ căn cộng Ngũ lực thành mười món; thêm vào Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Thất bồ-đề phần và Bát chánh đạo nữa thành là Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

       Nhất đán quán thông thành thánh quả. Tu tập Ba mươi bảy phẩm đạo vừa kể rồi tới một lúc nào hoát nhiên thấu suốt, hốt nhiên hiểu rõ hết mọi thứ, vậy là chứng đắc được quả Thánh, như ý nghĩa của câu tụng trên, dịch nghĩa là  “một sớm quán thông thành quả Thánh”.

       Thiên chân hữu dư nãi hóa thành. Quý vị không nên trú tại thiên chân hữu dư nãi hóa thành. Thiên chân là một phần chân lý, hữu dư là Niết-bàn hữu dư. Thiên chân hữu dư Niết Bàn là hóa thành. Hóa thành này do biến hóa ra không phải là thật. Ðạt được cảnh giới này chỉ mới chứng được Niết-bàn hữu dư, không phải là niết bàn cứu cánh rốt ráo. Cho nên hành giả không nên dừng lại chỗ này mà phải tiếp tục tu.

 

Vô trí diệc vô đắc.

(Không có trí, cũng không có chứng đắc)

藏教菩薩事六度   圓修妙覺理頓明

無智破執空諸相    不得非證了法融

於一毫端現寶剎    坐微塵裏轉大法輪

此語說出鮮誠信    未悉知音有幾人

 

Tạng giáo Bồ-tát sự lục độ

Viên tu Diệu giác lý đốn minh

                            Vô trí phá chấp không chư tướng

Bất đắc phi chứng liễu pháp dung

Ư nhất hào đoan hiện Bảo sát

Tọa vi trần lý chuyển Pháp luân

Thử ngữ thuyết xuất tiên thành tín

Vị tất tri âm hữu kỷ nhân.

         

       Kinh nói: “Vô trí diệc vô đắc”, trí là trí huệ, đắc là chứng được quả vị.

       Hành giả tới được chỗ này rồi thì trí tuệ cũng không muốn, quả vị chứng đắc cũng không có, không có mong ước cái gì. Thông thường những người học Phật như chúng ta đều nghĩ rằng tu Phật là để có trí huệ, và phải có trí huệ để chứng quả vị Phật. Hiện trí bát-nhã này cũng không có luôn, muốn đắc Phật quả cũng là vô sở đắc, nghĩa là không có được. Như vậy thì mọi thứ đều là không hay sao? Chẳng phải như vậy! Chẳng phải không có trí huệ, chẳng phải không có đắc, không được cái gì. Cái “không có” đó là không có sự chấp trước về trí huệ này, không có chấp trước về cái mình chứng đắc được.

 

         Tạng giáo Bồ-tát là nói Bồ Tát của Tam Tạng giáo. Các vị tu Pháp môn có trí có đắc. Pháp môn này gọi là sự lục độ.  Cho nên kệ nói Tạng giáo Bồ-tát sự lục độ. 

        Có sự lục độ và lý lục độ. Lý lục độ không có hiện sự tướng và không chấp trước vào bất cứ gì. Mặt khác, sự lục độ tức có sự chấp trước. Chấp vào gì? Chấp có chúng sanh để độ và có Phật đạo để thành. Chấp có chúng sanh để độ đó là trí, chấp có Phật đạo có thể thành đó là có chứng đắc. Nay trong kinh nói: Không có trí, cũng không có chứng đắc ám chỉ không còn chấp trước vào sự lục độ nữa. 

Sự Lục độ là gì?

1)Tu sự lục độ trước hết là thực hành bố thí để chữa trị (độ) sự keo kiệt của tâm tham. Quý vị nên hành bố thí tức sẽ không còn lòng tham keo kiệt. Nếu quý vị còn keo kiết và tâm tham tức sẽ không bố thí. Một khi bố thí ra là đã độ được keo kiệt.

2)Thứ đến là trì giới sẽ độ cho sự huỷ phạm. Nên trì giới thanh tịnh trong sáng thanh khiết quang minh như hạt minh châu. Trì giới thì không bị ô nhiễm, Nhiễm ô tức dơ bẩn, không tinh khiết trong sạch. Người không trì giới cũng giống như tờ giấy trắng bị hoen mực đen, càng hoen nhiều thì càng đen nhiều. Nếu quý vị trì giới thì ví như tờ giấy vốn vẫn còn màu trắng.

3) Thứ ba là pháp nhẫn nhục. Nhẫn nhục độ sân khuể. Sân khuể là tức giận. Quý vị tu nhẫn nhục thì không còn bực tức, nếu có bực tức thì không phải nhẫn nhục. Nếu quý vị tu nhẫn nhục thì sẽ không còn sân giận.

4) Bốn là tinh tấn. Tinh tấn độ giải đãi. Phải tinh tấn hàng ngày, hàng giờ, dũng mãnh tinh tấn, như vậy thì không còn giải đãi, không lười biếng nữa.

5) Thứ năm là thiền định. Thiền định độ tán loạn. Nếu quý vị muốn tu thiền định, quý vị trước phải ngồi tĩnh tọa cho lâu, ngồi cho tới khi có công phu để có thể vào định. Khi có định lực thì sẽ không bị tán loạn nữa.

6) Thứ sáu là bát-nhã. Bát-nhã tức trí huệ, có trí huệ độ ngu si.

          Chữ độ trong tiếng Hoa là cứu độ, và quen được dịch là lục độ, nhưng đây chỉ cho sự lục độ chớ không phải lý lục độ. Trên đây là sự lục độ, tức còn hiện ra sự tướng có thể trông thấy, có hình tướng có thể biểu lộ ra ngoài. Tỷ như quý vị nghĩ bố thí cốt làm cho không keo kiệt. A! Nếu nghĩ như vậy tức quý vị vẫn còn có tư tưởng chấp trước –Tôi bố thí đây tôi sẽ không keo kiết nữa. Nếu quý vị thực hành lý lục độ, quý vị bố thí cũng giống như không bố thí. Quý vị không nên chấp trước. Ðặc tính của lý lục độ là không chấp trước vào đâu. Lục độ có nhiều tầng thứ. Thí dụ như vô tác lục độ được tu bởi các vị tu viên giáo, giác ngộ viên mãn.  Trên căn bản thì không nên chấp vào bất cứ chuyện mình đã làm, mà coi như là đã không có làm vậy. Quý vị nói: Khi tôi không làm gì, thì tôi có thể nói là tôi đã làm có được không? Nếu quý vị cho rằng tôi bố thí như không bố thí thì cũng có thể nói không bố thí là bố thí chăng? Nếu quý vị bố thí, và quý vị nghĩ như quý vị không có bố thí thì được, nhưng quý vị không được nói, khi quý vị không bố thí thì cũng coi như là quý vị đã bố thí.

       Viên tu Diệu giác lý đốn minh. Bồ-tát Viên giáo tu hành lục độ. Bồ-tát Viên giáo chính là Bồ-tát Diệu giác. Viên tu diệu giác là nói các vị này. Họ cũng như Bồ-tát biệt giáo cùng tu lục độ, có điều khác đây là lục độ, nghĩa là chỉ có lý mà không có sự tướng, không có sự chấp trước. Cho nên nói Lý đốn minh có nghĩa là tức khắc lãnh hội, hội được ý nghĩa bố thí mà chẳng phải bố thí, cứu độ mà chưa hề độ, tóm lại là không chấp trước về sự của lục độ. Quý vị bố thí cũng như không bố thí, không chấp trước. Cho nên kinh nói “Vô trí diệc vô đắc”.

Lý lục độ cũng có nhiều loại. Viên giáo tu vô tác lục độ, tức không chấp trước chút nào vào việc đã làm, làm mà coi như không làm gì. Còn như không có làm không thể nói là đã làm như nói bố thí như không thí, không thí như bố thí. Tôi không bố thí cũng như là bố thí, không thể nói như thế được. Bố thí rồi như không bố thí thì được, không thể nói tôi không bố thí tức là bố thí.

          Bồ-tát Viên giáo thực hành các pháp lục độ, nhưng sau đó họ không chấp trước, coi như họ không làm gì. Họ làm cũng như không làm, chớ không phải như ai nói rằng, tôi không bố thí cũng như tôi bố thí.

Vì không còn chấp trước vào sự lục độ nên kệ nói:

Vô trí phá chấp không chư tướng. Vô trí phá chấp, có nghĩa là không có một trí nào mà vẫn phá được chấp Bát-nhã; không chư tướng tức là hết thảy mọi tướng đều không. Cho nên kinh nói: “Vô trí diệc vô đắc”.

        Bất đắc phi chứng liễu pháp dung. Bất đắc cùng nghĩa với vô sở đắc, ý nói không chấp vào sự chứng đắc quả Phật (phi chứng). Tới được cảnh giới này thì:

Thượng vô Phật đạo khả thành,

                                 Hạ vô chúng sanh khả độ.

                                         (Trên, không có Phật đạo để thành tựu,

                                Dưới, không có chúng sanh để diệt độ.)

        Nghe như vậy, chúng ta đừng hiểu rằng thực tế chẳng có chúng sanh nào để độ thoát, mà phải hiểu rằng độ mà như không độ. Tuy độ hết thảy chúng sanh mà không một chúng sanh được độ. Không phải không có chúng sanh để độ mà không có chấp trước vào sự độ. Cũng không nên chấp vào trí huệ và sự chứng đắc. Chữ “vô” đây (của vô sở đắc) chính là Ðại Viên Kính Trí, trong đó không hề có chấp trước nào, mọi pháp như hoàn toàn dung hợp với nhau (liễu pháp dung).

       Ư nhất hào đoan hiện Bảo sát. Khi chứng đắc cảnh giới trên tức trên đầu một sợi lông hiện ra cõi nước của Bảo Vương. Ðây là cái lớn hiển hiện ra bên trong cái nhỏ.

       Tọa vi trần lý chuyển Pháp luân. Ngồi trong hạt bụi mà chuyển bánh xe pháp lớn. Ðây là đạo lý của kinh Lăng Nghiêm.

       Thử ngữ thuyết xuất tiên thành tín. Ðiều này nói ra rất ít người tin được.

       Vị tất tri âm hữu kỷ nhân. Câu này nghĩa là, số người có lòng tin rất hiếm, nên tôi cũng không biết có bao nhiêu kẻ tri âm, cũng nói là không biết có bao nhiêu người hiểu rõ đạo lý này.

          Ngài Hư vân có câu:

走遍天涯尋知己

未知若個是知音

                                Tẩu biến thiên nhai tầm tri kỷ

                                Vị tri nhược cá thị tri âm

                                        (Ði khắp chân trời tìm tri kỷ,

                                Chửa biết ai là kẻ tri âm.)

          Sao gọi là Tri âm? Tức là người hiểu những gì tôi nói ra. Không có tri âm là không ai hiểu những gì tôi nói. Có người hiểu ý này tức là có tri âm. Hoặc có vị nói rằng: “Pháp sư, con hiểu những gì Pháp sư nói”. Vậy vị này chính là tri âm của tôi. Nếu bảo không hiểu tức là không phải tri âm. Nếu lại bảo vừa hiểu vừa không hiểu thì đúng là vừa tri âm mà vừa không tri âm.

           Có gì có thể nhận ra được là tri âm hay không? Như tôi tụng lên và giảng nghĩa bài tụng này, người nào y theo đó mà tu tập thì người đó là tri âm của tôi, ai không theo thì chẳng phải tri âm. Tin vào các đạo lý tôi thuyết giảng là tri âm, bằng không tin thì chẳng phải là tri âm. Ý nghĩa điều thuyết giảng đó là gì?  

於一毫端現寶王剎

坐微塵裏轉大法輪

Ư nhất hào đoan hiện Bảo Vương sát,

Tọa vi trần lý chuyển đại Pháp luân

(Trên đầu sợi lông hiện Bảo Vương Quốc,

Ngồi trong hạt bụi chuyển Ðại Pháp Luân).

Ở trên đầu một sợi lông hiện ra chư Phật quốc độ. Bảo vương sát là cõi nước nơi Phật thuyết pháp độ chúng sanh. Ngồi trong hạt bụi chuyển đại Pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Ở cảnh giới mà cái lớn hiện bên trong cái nhỏ. Ai lãnh hội được ý nghĩa này, kẻ đó là tri âm của tôi. Ai không hiểu được thì cần phải tu học thêm Phật Pháp. Tu đến độ mà quý vị cũng có thể ngồi trong hạt bụi chuyển đại pháp luân, lúc đó quý vị sẽ hiểu.

 

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại.

(Bởi không có chứng đắc, nên khi Bồ-đề-tát-đỏa nương theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không bị chướng ngại).

無修無證無所得   有相有為有盡時

菩提薩埵悟斯理   依據般若彼岸齊

心無罣礙離報障   性具真空泯言思

寄語來賢求諸己   頭上安頭最愚癡

Vô tu vô chứng vô sở đắc

Hữu tướng hữu vi hữu tận thời

Bồ đề tát đỏa ngộ tư lý

Y cứ Bát-nhã bỉ ngạn tề

Tâm vô quái ngại ly báo chướng

Tánh cụ Chân không dân ngôn tư

Ký ngữ lai hiền cầu chư kỷ

Ðầu thượng an đầu tối ngu si.

 

        Trở lại đoạn Kinh văn trước nói “vô trí diệc vô đắc”, chữ “vô trí” mà kinh nói chính là đã phủ nhận trí huệ “sự lục độ” của các Bồ-tát Tạng giáo, còn “vô đắc” thì phủ nhận sự chứng đắc Niết-bàn hữu dư của Nhị thừa.

         Qua tới đoạn kinh này nói: “Dĩ vô sở đắc cố”. Chữ “vô sở đắc” nêu lên tông chỉ của bổn kinh. Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa có tông chỉ gì? Kinh chủ trương phá trừ chấp trước, khiến tâm không bị vướng mắc vào kết quả tu chứng (sở đắc), chứng mà không chứng, không chứng mà chứng. Sao gọi là chứng mà không chứng? Quý vị chứng quả này mà không chấp vào việc chứng quả. Khi không có loại chấp trước này thì lúc đó quý vị mới chân chánh đạt tới Niết-bàn rốt ráo. Cho nên vô sở đắc chính là tông chỉ của bổn Bát-nhã Tâm kinh này.

         “Bồ đề tát đỏa, y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại.” Bồ đề tát đỏa nói gọn là Bồ-tát, các Ngài thực hành bát-nhã ba-la-mật-đa, tức trí huệ thâm sâu, đến chỗ tâm vô quái ngại. Chúng ta không đắc được tự tại chính bởi vì có quái ngại. Vô quái ngại là được tự tại.

Vô quái ngại phá trừ báo chướng. Vô quái ngại này sẽ diệt trừ báo chướng dựa vào vô sở đắc mà phá trừ ba chướng. Bởi không chấp vào sự chứng đắc - vô sở đắc - nên ba chướng được phá trừ. Ðây là một loại sức mạnh của bổn kinh này có được. Vô sở đắc là ý chỉ của kinh này và phá trừ ba chướng là ích dụng của nó.

Bởi không có chứng đắc, nên khi Bồ-đề-tát-đỏa nương theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, trên pháp bát-nhã thâm sâu, đem lại sự diệt trừ báo chướng để nói rằng, tâm không bị chướng ngại. 

Nhắc lại, ba chướng gồm báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng, như tôi đã giảng ở trên. Nếu quý vị có quái ngại, tức sẽ không thể phá trừ báo chướng được. Vô quái ngại là gì? Tức đạt được tới cảnh giới nhân không, pháp không, chứng đắc được cảnh giới nhân, pháp cả hai đều là không.

            Vô tu vô chứng vô sở đắc. “Vô tu”là gì? Vì việc tu hành đã xong. “Vô chứng” vì đã chứng đắc rồi. Những điều gì phải làm thì họ đã làm xong, không còn thọ những gì còn lại (quả báo) về thân sau nữa. Những việc nên làm đã làm xong, việc lớn đã hoàn tất, nên nói là vô chứng. Vậy có phải chăng là vô tu vô chứng lại hãy còn có một cái sở đắc không? Còn “sở đắc” thì sao? Vô tu vô chứng nghĩa là mặc dù đã không có chỗ đắc mà cũng không có chỗ nào để đắc được luôn. Cũng chẳng còn sở đắc, vì nếu còn có gì sở đắc nữõa tức là còn có sự chấp trước.

          Hữu tướng hữu vi hữu tận thời. Câu này nghĩa là nếu quý vị còn chấp có tướng, hoặc chấp vào pháp hữu vi, thì vẫn còn thấy có giới hạn tận cùng, vĩnh viễn đều chưa đến chỗ vô cùng tận. Nếu muốn vô tận, tức phải là chỗ vô tu, vô chứng, vô sở đắc. Nếu quả quý vị đối với mọi thứ đều coi như vô sở đắc, lúc đó quý vị mới thật là tâm vô quái ngại.

          Bồ đề tát đỏa ngộ tư lý. Bồ-đề-tát-đỏa là gì? Người Trung Quốc gọi Bồ-tát nếu nói cho đầy đủ tức là Bồ-đề tát-đỏa. Ðây là một danh từ phiên âm từ tiếng Phạn. Bồ-đề nghĩa là giác, tát-đỏa nghĩa là hữu tình, bồ-đề-tát-đỏa nghĩa là giác hữu tình, tức giác ngộ kẻ hữu tình.

         Hữu tình là gì? Nói chung hữu tình là loài có khí huyết, không phải riêng chỉ loài người, mà là mọi loài có sinh mạng.

         Giác ngộ hữu tình, Bồ-tát giác ngộ mọi loài hữu tình, khiến cho hết thảy đều đến chỗ giác ngộ, giống như sự giác ngộ của chính các Ngài. Lấy ví dụ như Bồ-tát niệm chú Lăng nghiêm, đồng thời các Ngài cũng mong rằng người khác cũng có thể niệm được chú như mình, chớ không phải nói: “Chỉ có tôi là biết niệm, tôi không thích có người khác niệm được, như vậy sẽ cho thấy tôi không giống như các người khác.” Không phải vậy. Nếu quý vị thấy có điều gì lợi ích cho mình, quý vị thích người khác cũng được lợi ích giống như mình. “Tôi tự mình nghe giảng kinh đạt được điều tốt, bởi vì tôi hiểu đạo lý học Phật, làm người, tôi cũng khuyên nhủ các bạn bè thân thích của tôi đều tới nghe kinh, học Phật Pháp, hầu được hưởng lợi lạc giống vậy.”  Nghĩa của chữ giác ngộ hữu tình là như vậy.

         Cũng có một cách giảng khác về chữ giác ngộ hữu tình. Giác ngộ hữu tình còn có thể hiểu là một người giác ngộ trong loài hữu tình. Bồ-tát nguyên là một chúng sanh hữu tình, chỉ khác là Bồ-tát đã được giác ngộ, vậy đó là người giác ngộ trong hàng chúng sanh. Vì đã giác ngộ ở trong chúng sanh, nên Bồ-tát hiện nay cũng muốn giác ngộ hết thảy các chúng sanh, đó là ý nghĩa của Bồ-tát.

         Kể ra thì có Bồ-tát Tạng giáo, Bồ-tát Thông giáo, Bồ-tát Biệt giáo và Bồ-tát Viên giáo, thuộc bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt và Viên, giáo nào cũng có Bồ-tát cả. Các Ngài chỉ khác nhau về thứ bậc, tùy theo tâm lượng lớn hay nhỏ. Tâm lượng nhỏ là hàng Bồ-tát Tạng giáo, lớn hơn là Bồ-tát Thông giáo, lớn hơn nữa như cỡ các Bồ-tát Phổ Hiền, Quán Âm, Ðịa Tạng và Văn Thù Sư Lợi thì thuộc Bồ-tát Viên giáo. Chênh lệch chút ít với Bồ-tát Viên giáo là các Bồ-tát Biệt giáo.

         Cũng có cách phân loại theo mười đẳng cấp gọi là Thập địa Bồ-tát, từ Nhất địa Bồ-tát, Nhị địa Bồ-tát, Tam địa, Tứ địa cho đến Thập đẳng địa. Có nhiều loại Bồ-tát, bên trong lại có ngàn sai muôn biệt. Ðây cũng giống như con người chúng ta có nhiều giai cấp vậy.

         Tóm lại, các Bồ-tát ngộ được lý “vô sở đắc” và lãnh hội được pháp “tâm vô quái ngại” và do đó các Ngài hiểu rõ các đạo lý này.

         Bồ-tát là một danh xưng rất thần thánh, người Trung Quốc gọi ngắn gọn là Bồ-tát, nếu gọi cho đầy đủ là Bồ-đề tát-đỏa. Có người không phải là Bồ-đề tát đỏa, nhưng y tự cho mình là Bồ-đề tát đỏa. Có vị là Bồ-đề tát đỏa nhưng các ngài không thừa nhận tự mình là Bồ-đề tát đỏa. Quý vị thấy rất là kỳ quái phải không? Vậy rồi cuối cùng là sao? Không phải cho là phải; phải cho là không phải. Ðã không phải là Bồ tát thì là không phải rồi dù có cho là phải cũng vô ích. Nếu thật là Bồ-đề tát đỏa, quý vị khỏi cần nói là Bồ-đề tát đỏa thì đó cũng là Bồ-đề tát đỏa. Bồ-đề tát đỏa không tự đi truyền rao, hay quảng cáo trên báo nói: “Quý vị có nhận ra tôi không? Tôi là Bồ-tát nè!”

         Không phải là vậy đâu, vậy là sao? Bồ-đề tát đỏa phải có tâm Bồ-tát, tu Bồ-tát đạo, hành Bồ-tát hạnh. Ðây không phải là chuyện, chỉ nói trên đầu lưỡi như: Tôi là Bồ-tát nè! Nếu nói như vậy, thì quý vị không là gì mà chỉ là một tên ma chướng quỷ, nghiệp chướng quỷ và giống như bị các loại ngoại đạo tà thần nhập rồi tự ngụy trang nói: “Tôi là Quan-đế-công đây!” Thật ra, y là tiểu quỷ. Thậm chí đến tiểu quỷ cũng không bằng mà là một loài súc vật biến hóa loại tà tri tà kiến hoàng bì tử. Chính như trong kinh Pháp Hoa có nói loại chuột, (hoàng thục lang) giả là thần này, thần nọ. Chân chánh là Bồ-tát sẽ không nói: “Hãy nhìn tôi, Tôi là Bồ-tát.” Thí dụ, khi Tổng Thống du lịch tới một nơi nào đó, ông không cần giới thiệu mình: “Tôi là Tổng Thống nước Mỹ đây. Tôi là Nickon, Tổng Thống nước Mỹ tới đây. Quý vị có biết tôi không?” Không cần nói mà mọi người đều biết ông cả. Vì thế không cần thiết phải lên báo quảng cáo nói: “Tôi là Bồ-tát.”

         Cho nên quý vị là Bồ-đề tát đỏa, tức người khác cũng biết mà không phải người ta cũng biết luôn. Có gì chứng minh gì là Bồ-đề tát đỏa đây? Tôi nói cho quý vị biết, Bồ-đề tát đỏa là người là không còn hai loại sanh tử, phân đoạn sanh tử đã không và biến dịch sanh tử cũng hết. Sao gọi là biến dịch sanh tử? Sanh tử biến dịch nghĩ đơn giản là trong định không có một niệm sanh hay niệm diệt nào cả. Cho nên nói: “Na-già thường tại định, không khi nào mà không ở trong định,” mà thường thường ở trong định, có nghĩa là chấm dứt sanh tử, hết phân đoạn và sanh tử biến dịch mới là Bồ-đề tát đỏa thật sự nhưng quý vị không nhận ra Ngài. Diệu mầu chính ở điểm này. Quý vị sẽ không nhận ra vị chính thật là Bồ-tát đó đâu. Nếu quý vị nhận ra Ngài thì chính quý vị cũng là Bồ-tát tát đỏa đấy.

           Y cứ Bát-nhã bỉ ngạn tề. Câu tụng này nghĩa là Bồ-tát nương theo pháp bát nhã thâm sâu nên tới được bờ bên kia tức là đắc được ba la mật. “Bỉ ngạn tề” nghĩa là lên đến bờ bên kia.

          Tâm vô quái ngại ly báo chướng. Nếu tâm không còn chướng ngại thì sẽ lìa được báo chướng. Báo chướng là gì? Tức là thân thể của chúng ta. Tại sao chúng ta có cái thân thể này. Bởi vì chúng ta có quái ngại nên báo thân này chính là một chướng ngại, một báo chướng. Ðể không bị chướng ngại - tâm vô quái ngại - thì mọi thứ khổ lạc đều nhất như: khổ chẳng có mà lạc cũng không. Sanh tử cũng nhất như: sanh chẳng có mà tử cũng không, sanh cũng như tử, tử cũng như sanh, giữa trong sự sanh và tử chẳng làm quý vị dao động.

         Nói cách khác, khổ và lạc đã nhất như thì thuận nghịch nhất như. Thuận cảnh hay nghịch cảnh cũng vậy, chẳng có gì khác biệt. Ðây nói thuận nghịch, sanh tử, khổ lạc, nếu tất cả đều nhất như thì chẳng còn thứ gì có thể làm cho tâm ta dao động. Tâm không dao động vì tâm vô quái ngại. Nếu không có quái thì không có ngại, quý vị có quái tức có ngại. Chữ “quái” () cùng nghĩa với chữ “quải” (   ) là treo, mắc lên ở ngay đó, chữ “ngại” () là chướng ngại. Có chướng ngại là bị treo mắc lên ngay đây, chỗ quý vị đang có mặt đó. Vậy nếu vốn không bị treo lên thì đâu còn gì làm cho chướng ngại nữa? Cho nên nói vô quái vô ngại.

          Vô quái ngại tức chấm dứt sanh tử. Cho nên nói, sanh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề. Lúc hàng Nhị thừa chưa tỏ ngộ được lý này mà quý vị nói với họ phiền não tức Bồ-đề, sanh tử tức Niết-bàn, thì họ sẽ hoảng hốt mà chạy dài, họ sẽ bảo rằng họ chưa bao giờ được nghe pháp nào như vậy. Cái gì “phiền não tức Bồ-đề, sanh tử tức Niết-bàn”, họ sẽ chẳng tin nổi quý vị. Vì không tin vậy họ mới muốn bỏ đi. Cho nên, nay là nói về hàng Bồ-tát. Chỉ có Bồ-tát mới giác ngộ được lý phiền não tức Bồ-đề, sanh tử tức Niết-bàn, chỉ cần chúng ta quay đầu, chuyển người là được - hồi đầu chuyển thân - là đạt được lý đó. Bởi đâu mà chúng ta không ngộ Bồ-đề? Bởi chúng ta bội giác hiệp trần, nghĩa là xoay lưng về giác ngộ mà hướng tới cảnh trần lao, do đó chỉ cần chúng ta bội trần là có thể hiệp giác.

          Với tâm vô quái ngại ngay trong hết tất cả những thứ sanh tử, khổ lạc, thuận nghịch mà tâm không dao động, đó chính là vô quái ngại, và là lúc xa lìa báo chướng, và cũng rời vô quái ngại của thân.

Chúng ta không lìa được báo thân này, bởi cớ gì vậy? Bởi vì chúng ta coi cái thân này quá ư quan trọng. Mọi người cầu danh cầu lợi, đêm ngày bôn ba cực nhọc bận rộn cũng chỉ vì cái thân này; tìm hết cách, làm kẻ nô lệ giỏi, làm trâu ngựa tốt để phục vụ tấm thân, không dám xúc phạm tới nó. Ðâu có hay rằng là sự trái ngược lại, chính thân này đối với ta không khách sáo chút nào. Vậy nó đối xử với ta ra sao? Quý vị đối xử tốt với nó chừng nào thì nó càng tệ bạc với quý vị chừng đó. A! Giống như lời vua Ba-tư-nặc từng bạch với Phật rằng, lúc còn niên thiếu thân thể của ông cường tráng vì khí huyết sung mãn, đến khi về già thì tóc bạc da nhăn, thời gian còn lại chẳng là nhiêu, ngày chết gần kệ. Ðây bởi vì có chướng ngại. Nếu tâm vô quái ngại thì đâu còn chấp trước vào cái nghiệp của báo thân. Bởi có thân mới có báo chướng, nếu đạt được sự vô quái ngại thì tức là đạt tới cảnh giới vô ngã, mà vô ngã thì hết báo chướng. Ðó chính là nghĩa của câu tụng “tâm vô quái ngại ly báo chướng”.

          Tánh cụ Chân không dân ngôn tư. Nguyên là như vầy, tự tánh hay Phật tánh, tự thể nó đã đầy đủ ý nghĩa thực tướng của Chân như. Ðó là nghĩa của “tánh cụ Chân không”. Nếu như quý vị đạt được cái tánh của bản thể Chân như, thì không còn gì để nói nữa. “Dân ngôn tư” là không còn tư tưởng gì để nghĩ tới nữa.

          Ký ngữ lai hiền cầu chư kỷ. “Ký ngữ lai hiền” là ý tôi muốn gửi đôi lời tới các hiền giả trong tương lai. Các vị tu hành trong tương lai phải làm sao? Các vị muốn tu đạo thì phải “cầu chư kỷ”, tức là cầu ở chính mình. Quý vị muốn tới được chỗ vô sở đắc, vô quái ngại thì quý vị phải cầu ở nơi mình, chớ không phải hướng ra ngoài để cầu, để tìm kiếm. Ðừng tìm về đạo lý vô tu, vô chứng, vô sở đắc ở ngoài mình. Muốn tới được chỗ này quý vị cần phải cầu nơi mình, quay về mình để quán chiếu - hồi quang phản chiếu - cần phải phản cầu chư kỷ.

          Ðầu thượng an đầu tối ngu si. Nếu lại hướng ra ngoài tìm, đi ra phía ngoài tìm đạo này à! Ðó chính là ngu si! Có khác gì “trên đầu lại đội thêm một cái đầu nữa”? Ðây không phải là ngu si sao? Mà là ngu si nhất đó. Không nên trên đầu thêm một cái đầu. Chỉ có cách hồi quang phản chiếu, quay đầu, chuyển thân, ngoảnh đầu qua, quay cái thân này lại là tới đích. Nếu quý vị không quay thân lại được tức quý vị không thể tới nơi rồi.

 

Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng.

(Bởi không bị chướng ngại, nên không sợ hãi, xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng)

無罣礙名真放下   再無恐怖業障除

遠離顛倒生相破   夢想粗細沙惑如

三障消融圓三德   六根互用證六通

會此妙理親受用   知者易悟昧難途

Vô quái ngại danh chân phóng hạ

Tái vô khủng bố nghiệp chướng trừ

                             Viễn ly điên đảo sanh tướng phá

Mộng tưởng thô tế sa hoặc Như

Tam chướng tiêu dung viên tam đức

Lục căn hỗ dụng chứng lục thông

Hội thử diệu lý thân thọ dụng

Tri giả dị ngộ muội nan đồ.

 

         Bởi tâm không có chướng ngại nên không sợ hãi. Vì không sợ hãi nên xa lìa mọi thứ điên đảo và mộng tưởng. Hết thảy mộng tưởng đều không còn, điên đảo cũng không luôn. Không sợ hãi tức quý vị đã phá trừ được nghiệp chướng; không điên đảo mộng tưởng tức là phá trừ được báo chướng. Ðó là ý của câu tụng: “Tái vô khủng bố nghiệp chướng trừ”.

          Ðạt tới vô quái ngại chẳng phải là chuyện dễ. Có người bảo rằng: “Tôi chẳng nghĩ tới chuyện gì khác, chỉ nghĩ tới cha mẹ tôi mà thôi”. Vậy là tốt, là có hiếu. Tuy nhiên, hiếu đạo cũng là một chướng ngại. Hoặc có người lại bảo: “Tôi chẳng nghĩ gì, chỉ nghĩ cho con trai, con gái tôi thôi”. Ðó là lòng từ bi, tuy nhiên là từ bi nhưng cũng là chướng ngại, một chướng ngại tốt lành. Hay lại có người nói: “Tôi có một người bạn đã lâu không gặp mặt, sớm tối lúc nào tôi cũng nghĩ tới, tuy nghĩ là nghĩ vậy nhưng vẫn chưa gặp được”. Ðó là chướng ngại. Nói chung, cái gì mà ta không xả bỏ được (phóng hạ) thì cái đó là chướng ngại, do đó mới có câu tụng kệ sau: “Vô quái ngại danh chân phóng hạ”.

         Nói tới đoạn này, tôi nhớ lại hồi đó ở núi Linh Nghiêm, thuộc Tô Châu, có một vị Hòa Thượng, tên Ðại Tu. Sư chuyên tu thiền, nên suốt ngày từ sáng đến tối Sư đều tham thiền. Sau đó Sư buông bỏ hết mọi sự. Sư buông bỏ như thế nào? Sư có làm một câu đối như sau:

無大無小無內外,

自修自了自安排.

                                Vô đại, vô tiểu, vô nội ngoại,

                                Tự tu, tự liễu, tự an bài.

         Câu đối này nghĩa là chẳng lớn, chẳng nhỏ, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài. Quý vị nói đó là cảnh giới gì? Tự tu, tu xong, tự an bài các việc. An bài ra sao? Ðây cũng là một sự kỳ quái. Sư khoét vách núi thành một chỗ lõm, vừa vặn đủ chỗ một người ngồi. Bên ngoài Sư lấy đá chắn làm thành một cánh cửa, có thể mở ra hay đóng lại như ý muốn. Từ đó Sư đóng cửa đá lại và ngồi tu ở bên trong vách đá, cho đến khi tu xong, tức nhập Niết-bàn. Ðơn giản như vậy thôi! Ðó  mới là buông bỏ thật sự. Sư cũng không thâu đệ tử nào nên không có nhiều vấn đề, cho nên gọi là vô quái ngại. Có đệ tử thì cũng có quái ngại; có đệ tử là có nhiều vấn đề phiền hà. Tôi không biết có bao nhiêu vấn đề trong tương lai, nhưng tôi không để ý đến, bởi vì vấn đề cũng là không vấn đề và quái ngại cũng là không quái ngại.

          Có số người đã biết về câu chuyện của Hòa Thượng Ðại Tu, nhưng không vì đó mà tôi ngưng nói về Ngài. Khi giảng kinh quý vị không nên sợ mất nhiều thời gian. Khi quý vị mới bắt đầu giảng kinh, quý vị nên nói về cái mình biết, dù các người khác có hiểu hay không. Nếu quý vị không hiểu thì nói không hiểu. Khi mới thực tập giảng kinh, quý vị nên “để chân trên đất.” Khi quý vị nói một câu, nó giống như có 100 lbs đá rớt xuống và làm thành một lỗ hỏng. Ai không muốn nghe cũng phải nghe. “Tôi bỏ một câu này trong đầu quý vị, và quý vị sẽ phải chấp nhận thôi.” Vì vậy bất luận ai đã nghe qua một chút rồi, quý vị luôn có thể nói thêm về chuyện đó một lần nữa.

          Quý vị không được, “trộm giờ làm việc và cắt xén vật liệu.” Thí dụ như quy ước sẽ xây một cái nhà có xà ngang dày 8 tấc, và quý vị nói, “Ồ, nếu tôi dùng xà ngang dày 4 tấc thì cũng được vì nó rẻ hơn,” rồi quý vị xén bớt vật liệu. Và đáng lẽ quý vị phải làm 8 tiếng đồng hồ, quý vị chỉ làm có sáu giờ. “Tôi sẽ tạo ra sự lầm lẫn về 2 giờ và nói là tôi làm 8 giờ. Ðó là trộm giờ làm việc. Ðừng làm vậy khi quý vị thuyết pháp. Quý vị phải chính thật giảng thuyết và không để ý nếu thính giả hiểu hay không. Quý vị nên giảng cách như quý vị mới bắt đầu giảng, và trong tương lai cũng vậy. Quý vị có hiểu không? Hơn nữa, quý vị không nên chỉ giải thích các đạo lý mà tôi bảo quý vị thuyết giảng. Nước Mỹ nói về phát triển tự do, và vì thế quý vị nên để tự mình phát triển tự do và biểu đạt theo lý trí của mình. Có vậy mới phát huy sự mới mẻ và sáng tạo.

          Ðó cũng giống như Pháp sư Ðạo Thắng. Ða số người giảng kinh Ðại Niết Bàn, họ đều nói: “Xiển đề không có Phật tánh, và không thể thành Phật.”  Nhưng Pháp sư Ðạo Thắng tuyên bố: “Xiển đề cũng có Phật tánh, và cũngï có thể thành Phật! Mọi người đều phản đối, nhưng sỏi đá gật đầu đồng ý. Vì vậy ý nghĩa của câu: “Ngài Ðạo Thắng thuyết pháp, sỏi đá vô tình cũng gật đầu.” Tại sao sỏi đá gật đầu? Bởi vì Pháp sư gợi lên điều mới mẻ.

          Quý vị không nên chỉ theo cách của tôi. Nếu tôi không phải là ông thầy tài trí dân chủ, tôi sẽ không cho phép quý vị tự do phát triển theo quý vị. Và quý vị nhất định phải theo tôi, nếu không theo tôi thì sẽ đi trên đường lầm lẫn, thật ác, và sẽ đọa địa ngục trong tương lai.” Nhưng tôi đã không giống như vậy. Tôi hướng về sự phát triển tự do. Bởi nay tôi đã đến nước Mỹ, nơi có sự tự do phát triển. Mỗi người có tự do riêng, và tôi không thể che đậy trí huệ của quý vị, giống như tôi để vào cái tách và không cho nó đi ra. Trừ phi quý vị không có trí huệ và thật đần độn mà không phát sanh được sáng kiến mới gì. Quý vị nên chuyên tâm mà phát huy sáng kiến. Bất cứ đệ tử nào cũng có thể cống hiến được cả, không kể là người nào.

         

“Tái vô khủng bố nghiệp chướng trừ” tức khi không còn sợ hãi nữa thì sẽ tiêu trừ nghiệp chướng. Tại sao có sự sợ hãi, khủng bố? Bởi vì có nghiệp chướng. Nếu không sợ sệt nữa, thì nghiệp chướng cũng không còn.

         “Viễn ly điên đảo sanh tướng phá”, nghĩa là nếu chúng sanh có xa lìa được điên đảo thì mới phá được các tướng sanh ra[13].  Chúng sanh chúng ta đều điên đảo, sanh ra tướng vô minh nên không phá nổi. Nếu hết điên đảo, tức sẽ không có mộng tưởng, không có thô hoặc, tế hoặc, và trần sa hoặc. Như vậy mọi việc đều mới phù hợp với chân lý thật Như. Ðó là nghĩa của câu: “Mộng tưởng thô tế sa hoặc Như”.

          “Tam chướng tiêu dung viên tam đức”. Ðến lúc đó thì Tam chướng là nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng đều tiêu dung (tiêu tan). Tam đức là giải thoát đức, Bát-nhã đức và Pháp thân đức. đều được viên mãn, viên dung cả ba đức.

         Ðồng thời “Lục căn hỗ dụng” “chứng lục thông”. Nếu quý vị có thể dùng sáu căn hỗ dụng, đắp đổi với nhau thì mỗi căn đều sẽ có sự diệu dụng của sáu căn kia. Căn nào cũng có đủ năng khiếu của các căn kia. Và có thể nói là đắc được lục thông. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Mỗi căn còn có những công năng nhiệm mầu của nó. Ðây chứng minh rằng quý vị đắc được lục thông. Lúc này quý vị sẽ chứng đắc thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông. Quý vị được chứng minh là đắc được cả sáu thông.

Hội thử diệu lý thân thọ dụng, nếu lãnh hội được những đạo lý vi diệu như vậy (hội thử diệu lý) thì tự thân sẽ được hưởng dụng các công năng trên (thân thọ dụng) một cách chân chánh.

         Nếu biết được đạo lý này thì quý vị sẽ đạt được giác ngộ dễ dàng, còn như nếu mê muội thì sẽ đi vào con đường rẽ sai lầm, gặp không biết bao nhiêu là khó khăn. Ðó là ý của câu tụng: Tri giả dị ngộ, muội nan đồ.

 

Cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật, y bát nhã ba-la-mật-đa cố, đắc a-nậu-đa-la tam miệu tam-bồ-đề.

(Ðạt tới Niết-bàn rốt ráo. Ba đời chư Phật, nương theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, chứng a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề)

德無不備諸障蠲   究竟圓寂號涅槃   過去未來及現在   三世諸佛本同源

依此般若波羅蜜   至正等覺無上仙   行人但能勤精進   何愁不獲法性田

 

Ðức vô bất bị chư chướng quyên

     Cứu cánh viên tịch hiệu Niết-bàn

Quá khứ vị lai cập hiện tại

Tam thế chư Phật bổn đồng nguyên

Y thử bát-nhã ba-la-mật

Chí chánh Ðẳng giác Vô Thượng tiên

Hành nhân đãn năng cần tinh tấn

Hà sầu bất hoạch Pháp tánh điền.

 

         Cứu cánh Niết-bàn! Bởi vì quý vị đã phá trừ báo chướng, nghiệp chướng, phiền não chướng tức sẽ lìa hết mọi thứ điên đảo mộng tưởng.

          Nếu quý vị nghiên cứu, xét kỹ câu này trong Tâm Kinh thì thấy hết thảy chúng sanh trong cả chín Pháp giới đều sống trong cảnh mộng. Như hàng Bồ-tát mộng về “trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh”, các vị này mong cầu Phật đạo, thành Phật đạo rồi độ chúng sanh, hóa ra đó đều là mộng cả. Hàng Duyên giác cũng mộng luôn. Họ chỉ mơ về sự chăm lo cho chính thân mình, tìm nơi thâm sơn cùng cốc làm một A-La-hán. Loài người “chỉ nhận biết, quan tâm cho riêng mình.” Ðó là ý nghĩa của câu: Ðộc thiện kỳ thân, vị năng kiêm thiện thiên hạ, Chỉ lo cho mình, chưa thể lo cho cả thiên hạ được. Ðây cũng là mộng. Thanh văn thì có giấc mộng thiên (lệch) không Niết-bàn hữu dư.  Mộng của chư thiên là cảnh giới an lạc, vui sướng, hoàn toàn tự tại. Cho nên nói, thọ thắng diệu lạc.

Còn con người ta thì sao? Là giấc mộng danh lợi, cầu danh rồi cầu lợi, cầu cho thăng quan tiến chức, phát tài. Cả một đời sống trong cảnh đảo điên, lấy khổ làm vui, bận rộn suốt ngày, đều chẳng ngoài cái mộng danh lợi.

Ðối với loài A-tu-la là mộng đấu tranh, cũng tương tự như hiện nay đảng nọ tranh giành với đảng kia, đều là cảnh giới của A-tu-la. A-tu-la là ham thích đấu tranh và ở trong mộng đấu tranh.

Khổ cực nhục hình là mộng của chúng sanh trong địa ngục. Ðói rét là mộng của loài quỷ đói. Còn ngu si là mộng của loài súc sanh. Tóm lại trong  chín pháp giới, mỗi một pháp giới đều có cảnh mộng riêng biệt của nó. Duy có Phật là trong cảnh cứu cánh Niết-bàn, không có mộng gì. Do đó mới có câu “cứu cánh Niết-bàn”.

          Niết-bàn là gì? Niết-bàn là chẳng sanh chẳng diệt. Kẻ không hiểu Phật pháp thì cho rằng Niết-bàn là chết. Họ có đâu biết rằng, cái chết này không phải là chết bình thường mà là tự nguyện chết; quý vị biết cái chết, và hiểu rõ cái chết. Tự nguyện chết là sao? Bởi vì phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện tức các hạnh thanh tịnh đã thành, những điều cần làm đã thực hiện xong; bất thọ hậu hữu, không còn thọ thân sau nữa”[14]. Ðây là một sự tự nguyện nhập Niết-bàn, đến cảnh giới chẳng sanh chẳng diệt, mà hành giả đã tính biết trước, cho nên “dự tri thời chí”, A! Tôi dự định là vào lúc đó tôi sẽ nhập Niết-bàn. Ðây là quý vị biết trước thời gian lúc ra đi. Sao gọi là hiểu rõ cái chết? Ðang lúc nhập Niết-bàn với trí óc hoàn toàn sáng suốt, thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý không điên đảo. Thân đã không bệnh, sự đau đớn cũng không có. Tâm không ham danh, không tham tài, của cải, sắc dục, ăn uống, ngủ nghỉ, thuộc về ngũ dục. Ý không điên đảo và trong lúc lâm chung thần trí vẫn minh mẫn. Có người tu hành muốn nhập Niết-bàn, dự tri thời chí tự mình biết rõ, và còn nói rõ cho mọi người hay vào năm nào, tháng nào, ngày nào và vào giờ nào, sẽ nhập Niết-bàn. Ðó gọi là hiểu rõ -Niết-bàn không phải là cảnh chết đơn thuần mà chính là cảnh giới của chẳng sanh chẳng tử. Tại sao lại có tử? Bởi vì có sanh. Nay nếu quý vị được không sanh tức quý vị sẽ chẳng tử. Cho nên cứu cánh Niết-bàn. Sao là cứu cánh Niết-bàn?                                                  

          Ðức vô bất bị chư chướng quyên. Ðức hạnh viên mãn thì các thứ chướng   đều hết. Vì không còn chướng ngại gì, nên đức hạnh tự nhiên viên mãn đầy đủ. Khi dứt bặt hết các chướng ngại thì gọi là viên tịch và cũng gọi là Niết-bàn.

          Cứu cánh viên tịch hiệu Niết-bàn. Hết thảy mọi chướng ngại đều không còn nữa tức thì cuối cùng là sự viên tịch. Viên tịch hay Niết-bàn. Niết-bàn là tiếng Phạn, phiên dịch ra tiếng Hoa là Viên tịch. Viên tịch là đạo vô bất viên, đức vô bất tịch, đạo thì tự viên, đức thì tự tịch; đạo đã tròn đầy, đức đã đến chỗ  lặng vắng tịch tĩnh. Tại sao gọi là đức vô bất tịch? Ðức không đâu không vắng lặng tịch tĩnh khi đạt tới cực điểm sẽ khế hợp với Ðức tướng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh và vì thế đến một cảnh Niết-bàn vô cùng an lạc tịch tĩnh.

          Quá khứ vị lai cập hiện tại. Tam thế chư Phật bổn đồng nguyên. Chẳng riêng các Bồ-tát nương theo pháp Niết-bàn rốt ráo để tu tập mà cả chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng đều y chiếu theo Pháp đó.

          Y thử bát-nhã ba-la-mật. Chí chánh đẳng giác vô thượng tiên. Câu này nghĩa là ba đời chư Phật đều y theo bát nhã thâm sâu và trí huệ mầu nhiệm này mà đạt được A-nậu-đa-la tam miệu tam-bồ-đề, tức vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vô thượng có nghĩa là không có gì cao hơn. Ðó là gì? Tức là Phật. Chánh đẳng thuộc hàng Bồ-tát. Chánh giác thuộc Nhị thừa. Chánh giác và phàm phu không giống nhau, phàm phu thì không được kể là giác, vì hàng phàm phu hành động sai quấy mà không biết là sai, cũng không biết hối cải nên gọi là bất giác. Hàng Thanh văn và Duyên giác của Nhị thừa là những người đã giác ngộ một cách chánh đáng, cho nên khác kẻ phàm phu, nhưng họ chưa phải là chánh đẳng như các vị Bồ-tát tu các pháp lục độ vạn hạnh tức tu để mình được giác ngộ và giác ngộ người khác, độ cho mình, độ cho người, lợi mình và lợi người. Nhị thừa chỉ tu cho mình, không lo cho người khác nên chưa phải là chánh đẳng. Bồ-tát được gọi là chánh đẳng, nhưng chưa thể được vô thượng, chỉ có Phật mới là Vô thượng nên Phật có danh hiệu là vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, và Phật mới là Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

          Chư Phật trong ba đời đều y vào trí tuệ bát nhã thâm sâu để tới được bờ bên kia, đó là ý của câu tụng “chí chánh đẳng giác vô thượng tiên”. Chữ chí thì giảng như là chữ đáo Vô thượng tiên là chỉ Phật, cũng gọi là một vị Kim tiên đại giác ngộ (đại giác kim tiên).

          Hành nhân đãn năng cần tinh tấn. Vấn đề là hành giả phải mạnh dạn tinh tấn hướng về trước, không lùi bước, “không phơi nắng một ngày và để lạnh 10 ngày.” Tu đạo có nghĩa là phải thường xuyên tu tập, từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm, miên mật như vậy; bất kể ngày giờ, nơi chốn nào cũng đều cũng tinh tấn, chớ không phải hôm nay tinh tấn rồi ngày mai thoái lui, hay tiến được một bước để rồi lùi năm bước. Quý vị không nên như thế, đó không phải là tinh tấn.

           Hà sầu bất hoạch Pháp tánh điền? Người tu hành chỉ nên tiến tới dũng mãnh tinh tấn tức sẽ tới lúc được Pháp tánh điền. Pháp tánh thì ví như thửa ruộng. Có gieo giống vào thửa ruộng thì mới có ngày được thâu hoạch, chỉ cần chuyên cần ra công cày bừa tức có ngày được gặt hái. Pháp tánh điền chính là quý vị tự tu pháp thân này, khi tự tánh viên mãn thì thành Phật. Ðây giống như thâu lượm kết quả được từ ruộng pháp tánh mọc lớn lên, nên nói lo gì chẳng thâu hoạch được (hà sầu bất hoạch).

           Thí dụ như có một người tu hành rất tinh tấn. Y tu tập suốt cả đêm, không ngủ. Y tu qua một đêm và rồi sao? Ðợi khi trời sáng, y đi ngủ. Như vậy coi như chẳng có tu gì, và cũng không thể nói đó là tinh tấn. A! “Tất cả các người đều ngủ, chỉ tôi không ngủ, tôi đang tu đạo đây.” Sau đó ban ngày mọi người tỉnh thức thì y đi ngủ. Ðó không phải là tinh tấn. Ban đêm không ngủ, lại ngủ ban ngày cũng không đúng rồi.       

 

Cố tri bát-nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thiệt bất hư.

(Vậy phải nên biết rằng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là linh chú đại thần, là linh chú đại minh, là linh chú vô thượng, là linh chú tuyệt đỉnh, có khả năng tiêu trừ, mọi thứ khổ ách, chân thật chẳng hư dối).

是大神咒難窮測   是大明咒照三千   是無上咒臻覺果   無等等咒至極巔

除一切苦輪迴息   真實不虛各向前   以上顯說深般若   略解東西祖師禪

 

Thị đại thần chú nan cùng trắc

Thị đại minh chú chiếu tam thiên

Thị vô thượng chú trăn giác quả

Vô đẳng đẳng chú chí cực điên

Trừ nhất thiết khổ luân hồi tức

Chân thật bất hư các hướng tiền

Dĩ thượng hiển thuyết thâm bát nhã

Lược giải đông tây Tổ sư thiền.

 

         Thị đại thần chú nan cùng trắc. Bởi ở trên đã giảng nhiều đạo lý rồi, cho nên biết bát-nhã ba-la-mật, diệu trí huệ, một pháp có thể đến bờ bên kia là một đại thần chú.

Sao nghĩa là đại? Ðại là đối với nhỏ mà nói. Chữ “đại” ở đây nghĩa là lớn, với ngụ ý rằng không có cái gì lớn hơn nữa, không có cái gì lớn bằng. Giả sử như có một cái gì lớn hơn nó thì không thể gọi nó là “đại” được mà chỉ là “tiểu” thôi. Bởi vì đại nhi vô ngoại, không gì vượt ngoài nó hơn nên không có gì lớn hơn nó. Thần chú là gì? “Thần chú” là một cái gì không thể nghĩ bàn. Nghĩa của chữ “thần” cũng gần giống như nghĩa của chữ “diệu”, duy chữ “diệu” thì hàm ý “bất động”. Còn chữ “thần” có tính cách “động”. “Diệu” bất động mà soi suốt hết thảy, sáng tỏ đến hết mọi thứ nên không cần phải di động; “Thần” thì linh động, bất động thì chẳng phải “thần”; “thần” là thần thông, thông là nghĩa thông qua, tức là có ngụ ý di động.  Không cần động mà biết, đó là nghĩa của “diệu”. Như Phật giáo hóa chúng sanh thành đạo và nhập Niết-bàn tại quốc độ khác, Ngài đều biết hết. Còn “thần” thì phải tới nơi mới biết nổi, giống như hỏa tiển, phi thuyền, khi đã lên tới cung trăng rồi mới biết đất cát trên cung trăng ra sao, sự cấu tạo mặt trăng như thế nào. Ðó là chỉ có chút ít thần. “Diệu” thì không cần phải đến đó mà đã biết được mặt trăng ra sao? Cũng khỏi cần nhờ vào phép tính toán, hay nhờ lý luận khoa học để suy đoán mới biết nổi. Ðây là bất động đạo tràng mà biết hết tất cả. Thần chú phải động đạo tràng, phải tới nơi mới biết được.

           Chữ “chú” là nghĩa gì? Tiếng Anh gọi chú là MANTRA, cũng là một loại cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Chú có bốn nghĩa như sau:

         1. Tất cả các chú đều là tên của các vua trong giới quỷ thần, tỷ như Tỳ-xá-già (Pisaca) và Cưu-bàn-trà (Kumbhanda) là tên gọi của các vua quỷ và thần. Một khi quý vị niệm tên quỷ chúa, bọn tiểu quỷ và tiểu thần đều sẽ giữ quy luật đàng hoàng. Tại sao? Vì thấy quý vị biết cả đến tên vua chúa của chúng, nên chúng không dám làm bậy, làm điều không theo quy củ.

         2. Chẳng hạn trong quân đội người ta dùng mật hiệu, coi như khẩu hiệu trong quân đội và mỗi ngày họ có một khẩu lệnh khác nhau, và chỉ có người trong nội bộ mới biết mật hiệu đó, người ở ngoài không biết được. Thí dụ hôm nay khẩu lệnh là chữ “thắng lợi”, trong đoàn ai cũng biết khẩu lệnh này là “thắng lợi”. Nếu quý vị gặp người lạ không biết mặt, thì quý vị phải hỏi khẩu lệnh. Nếu người đó nói: “thắng lợi”, thì đúng và quý vị biết ngay người đó là bạn. Còn nếu như nói: “cát tường”, tức không đúng thì có thể túm bắt hắn liền. Tại sao. Vì hắn không phải là người cùng phe. Câu thần chú cũng tương tự như khẩu lệnh vậy. Khi chúng ta niệm chú, quỷ thần nghe được, cho là đúng khẩu lệnh, nên chúng đều sẽ ngoan ngoãn và thi hành đúng phép tắc chớ không dám  chống chọi lại.

         3. Chú có thể coi như một loại mật ngữ, không ai hiểu ngoại trừ một số nào đó biết mà thôi. Lấy thí dụ, có một anh vốn nghèo hèn hạ tiện, lưu lạc đến một xứ khác. Bởi không ai biết gốc tích y ra sao, nên y tự xưng rằng: “Ta chính là vua của nước kia, nay trong nước có nội chiến, quân lính làm loạn, ta phải chạy qua đây tỵ nạn.” Quốc vương của xứ này, tin lời y nói là sự thật bèn gả công chúa cho y. Gã cùng khốn này cũng hống hách suốt ngày, ra dáng giống như thân phận của một vị vua thật. Có người biết được lai lịch của y, biết y là kẻ hạ tiện, mới mách cho công chúa rằng, nếu y còn hống hách nữa, thì công chúa chỉ cần nói với y mấy câu sau: “Anh vốn là kẻ hạ tiện, phải lưu lạc đến đây thì cần chi phải dở chứng giận dữ như vậy?” Sau khi nghe được câu này, y biết rằng có người đã hiểu rõ gốc gác của mình nên từ đó y không còn dám tỏ ra vẻ giận dữ nữa. Chú là nghĩa như vậy đó. Nếu quý vị niệm chú, quỷ thần sẽ nhận ra rằng, quý vị biết rõ hết các sự việc, gốc rễ của chúngï, do đó chúng sẽ không dám đối xử sái phép với quý vị.

          4. Chú là tâm ấn của chư Phật, là mật ngữ, chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ, người thường không biết được, cho nên người ta không dịch nghĩa của chú, mà chỉ dùng phiên âm của chú thôi. Khi nghe chú, các chúng sanh tùy theo loại mà tuân hành. Chúng ta không hiểu chú, nhưng quỷ hiểu, thần hiểu, a-tu-la, súc sanh, yêu ma quỷ quái đều hiểu được, cho nên khi nghe tụng chú, tất cả đều thành thật tuân lệnh.

          Tỷ như câu chuyện về một ông vua hạ lệnh muốn tiên-đà-bà. Trong tiếng Phạn tiên-đà-bà (saindhava) có bốn nghĩa khác nhau: nó là muối, có thể là nước, là con ngựa, hay là một thứ dùng để đi tiểu hay đại tiện. Khi nhà vua đòi tiên-đà-bà, các quần thần không hiểu vua đòi món gì trong bốn thứ kể trên, nhưng người nào thông minh thì cứ tùy theo hoàn cảnh, từng lúc khác nhau, có thể biết được nhà vua muốn gì. Chẳng hạn, vua đương ăn mà đòi tiên-đà-bà thì chẳng phải là đòi đi đại tiểu tiện, mà là đòi muối. Khi đi đâu mà đòi tiên-đà-bà, có nghĩa là vua muốn đi ngựa; lúc khát thì phải là đòi nước. Nếu chẳng phải lúc ăn, chẳng phải đi đường, chẳng phải khát mà đòi tiên-đà-bà thì chắc chắn là muốn đi đại tiểu tiện. Vậy thì khi quý vị niệm chú, quỷ hay thần nào thông minh, có trí tuệ sẽ hiểu được chú. Các quỷ khác thần khác cũng có thể làm theo dù là không hiểu đi nữa. Trên là bốn nghĩa của chú.

         Trong câu tụng trên “thị đại thần chú nan cùng trắc”, chữ nan là rất khốn khổ, không dễ dàng, cũng là cùng tận. Trắc là đo lường. Nan cùng trắc nghĩa là rất khó suy lường đến tận cùng, ý nói chú là điều không thể tưởng tượng, không cách gì hiểu được là một cảnh giới không thể nghĩ bàn. Ở trên đã giảng về chữ “thần” và chữ “diệu”. Thần thì chẳng thể nghĩ bàn nhưng thuộc về động, Diệu cũng nhưng thuộc về tĩnh. Ðộng hay tĩnh đều chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng thể nghĩ bàn trong động là thần, chẳng thể nghĩ bàn trong tĩnh là diệu. Cho nên thần cũng là diệu, diệu cũng là thần; không thần cũng là không diệu, không diệu cũng là không thần. Thần diệu nan cùng trắc. Cái gì mà thần diệu thì chẳng thể nghĩ bàn, rất khó mà suy lường đến cùng tận. Cho nên, tôi cũng không có cách nào nói rõ hết được những gì tôi nói hiện nay bởi vì nó quá thần quá diệu đi.      

Thị đại minh chú chiếu tam thiên. Bát-nhã Tâm kinh chính là một đại minh chú. Ðại minh ngụ ý Ðại Quang Minh Tạng. Ðại Quang Minh Tạng - đại minh chú, sáng soi và phá tan mọi sự hắc ám. Nên niệm tâm kinh - hướng nội mà nói tức phá trừ bao nhiêu phiền não vô minh mà quý vị đã tích lũy đời đời kiếp kiếp từ thời vô thủy đến nay - khi quý niệm Tâm Kinh thì bao nhiêu phiền não vô minh đã tích lũy lâu đó sẽ được soi sáng và bị phá tan hết; còn hướng ngoại nói, thì chú sẽ chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Câu kệ tụng trên chính là nghĩa này, tức là khi niệm đại minh chú thì chú sẽ phóng hào quang, cho nên nói đại minh chú chiếu tam thiên.                   

Tam thiên đại thiên thế giới là nói về thế giới bên ngoài, tự tánh phiền não của chúng ta cũng được chiếu soi và đối với thế giới bên trong  cũng diệt trừ phá diệt luôn. Nội nhi ngoại, ngoại nhi nội, trong mà ngoài, ngoài mà trong. Vậy là trong cũng như ngoài, tất cả đều được quang minh chiếu sáng. Trong ngoài đều sáng, thì đó là trí huệ hiện tiền. Loại quang minh này chính là trí huệ bản thể. Khi bổn trí huệ sẵn có của ta hiển hiện thì nó chiếu tam thiên đại thiên thế giới.

          Thị vô thượng chú trăn giác quả. Vô thượng là nghĩa không có cái gì cao hơn nó. Ðạt tới quả vị Phật gọi là vô thượng. Chữ vô thượng dành cho quả vị cao nhất là quả vị Phật. Nếu quý vị niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh này thì từ địa vị phàm phu quý vị sẽ tiến từng bước dần đến quả giác ngộ là quả vị Phật, do đó câu tụng nói là trăn giác quả. Chữ trăn nghĩa là đạt tới, tới chỗ được quả giác ngộ.

         Vô đẳng đẳng chú chí cực điên. Chữ vô đẳng nghĩa là không có gì sánh bằng, vì chính đó là quả Phật cùng tột, giác ngộ cứu cánh, cho nên nói chí cực điên. Chữ điên là đỉnh núi, ý nói tới chót vót mút đầu đỉnh núi.

          Trừ nhất thiết khổ luân hồi tức. Ðiều quan trọng là diệt trừ hết thảy khổ ách, vì nếu không diệt được mọi khổ nạn thì cũng chẳng ích lợi gì. Năng trừ nhất thiết khổ là nói khổ ách nào cũng diệt trừ hết được. Quý vị có mọi thứ khổ, như ba khổ: khổ khổ, hoại khổ, hành khổ; tám khổ: khổ về sanh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thịnh, và cái thứ tám này tức ngũ ấm xí thịnh là thứ khổ khó hàng phục nhất, cũng hàng phục luôn. Chú diệt trừ hết thảy mọi khổ, và làm ngưng tắt luôn cảnh luân hồi (luân hồi tức).

         Phải thoát khỏi luân hồi thì mới gọi là ngưng dứt luân hồi tức. Nếu không thoát ra luân hồi tất không thể ngưng, đây nói nên liễu sanh thoát tử xuất luân hồi. Vậy muốn diệt hết ba khổ, tám khổ và còn muốn thoát khỏi vòng sanh tử, thì phải làm sao? Phải chấm dứt cái khổ do 5 nguyên nhân sau: kiến ái, dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vô minh ái, và còn phải cho nhị tử tiêu vong một cách vĩnh viễn.

         Ngũ trú cũng gọi là ái trú. Khổ vì ái trú, đó là phiền não kiến ái; dục ái trú là phiền não dục ái; sắc ái trú tức phiền não sắc ái; vô sắc ái trú là phiền não vô sắc ái; vô minh ái trú tức phiền não vô minh ái. Năm thứ trú vừa kể, mỗi loại ái trú là một loại phiền não. Tại sao gọi là trú? Trú hàm nghĩa là kiên lao, ở yên  một chỗ, kiên cố bất động, hàm nghĩa kiên cố và lâu dài.

         Kiến ái là sự tham ái về cảnh giới mà ta đã chứng nghiệm qua, rồi sanh tâm tham luyến cảnh đó. Khi chưa chứng kiến thì tâm tham ái này chưa sanh, nay đối cảnh rồi thì sanh tâm luyến ái, đây gọi là kiến ái trú. Dục ái trú là ái trú của cõi dục, sắc ái trú thuộc cõi sắc giới, vô sắc ái trú thuộc vô sắc giới. Chúng sanh ở cõi trời vô sắc giới này tuy có thọ mạng rất dài, nhưng họ vẫn chưa diệt hết phiền não, chưa dứt được vô minh. Còn vô minh ái trú, thì phiền não vô minh gọi là khổ vô minh. Năm thứ ái trên là năm thứ khổ mà chúng sanh thường chấp chặt vào để an trú, nên gọi chung là ngũ trú. Nếu giảng về các phiền não của ngũ trú cho thật tường tận đầy đủ, thì giảng hoài cũng không hết. Ở đây tôi chỉ nhắc tới một số danh từ, tên của các món đó mà thôi!

          Nói tới nhị tử thì những ai chưa từng nghe kinh, liền cho rằng nhị tử là chết hai lần. Không phải vậy, Ðây có ý nói về hai loại sanh tử, phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử. Phần đoạn có nghĩa như sau: quý vị có phần của quý vị, tôi có phần của tôi. Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có phần của mình, gọi là phần. Còn đoạn là đoạn thân, quý vị có đoạn thân của quý vị, tôi có đoạn thân của tôi, gọi là đoạn. Chữ đoạn có nghĩa là một khoảng hạn định nào đó. Từ ngày sanh ra cho tới ngày chết là một đoạn; về thân thể thì từ khoảng chân lên tới đỉnh đầu cũng là một đoạn. Sanh tử áp dụng cho trường hợp này gọi là phần đoạn sanh tử. Khi chứng được quả vị thứ tư là A-la-hán thì dứt được phần đoạn sanh tử, nhưng chưa giải quyết xong biến dịch sanh tử.

         Chân thực bất hư các hướng tiền. Chứng được phần đoạn sanh tử, giải quyết được biến dịch sanh tử, ngũ trú đã xong, nhị tử tiêu vong, tới được chỗ này mới là thật trừ mọi khổ nạn và chấm dứt vòng luân hồi. Ðược như vậy mới có thể gọi là Bồ-tát chân chánh, không phải là thứ Bồ-tát giả.  Quý vị có muốn làm Bồ-tát chăng? Muốn vậy, các vị phải gấp rút tiến tới tu hành, tinh tấn và dũng mãnh tiến tu, chớ đừng học thói lười biếng của mấy vị Sa-di, Tỳ-kheo, hay cư sĩ kia, suốt ngày chỉ biết ngủ nghỉ, mắt mở không ra.

         Dĩ thượng hiển thuyết thâm bát nhã. Ở trên giảng về Tâm kinh Bát-nhã. Ðó là hiển thuyết, vài câu kinh văn phần dưới đây sẽ nói về mật thuyết.

         Lược giải đông tây Tổ sư thiền. Những câu kệ tụng tôi nói phía trên là lược   giảng về phương pháp tọa thiền của các Tổ sư phương Tây cũng như phương Ðông. Phương pháp đó như thế nào? Câu tụng đầu tiên đã nói như sau:

迴光返照觀自在,覺悟有情即薩埵

                                    “Hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại

                                     Giác ngộ hữu tình tức Tát-đỏa”

          Chúng ta phải hồi quang phản chiếu. Ai ai cũng có đức tướng trí huệ Như Lai, chỉ vì chấp trước vọng tưởng mà không chứng được. Vậy muốn đạt được trí huệ đó chúng ta phải giải trừ chấp trước và hồi quang phản chiếu. Và hãy đọc cho thuộc các câu tụng kệ, hãy tham thiền tĩnh tọa, pháp của các vị Tổ sư phương Ðông nằm ở chỗ ấy, pháp các vị Tổ sư phương Tây cũng nằm ở chỗ ấy.

          Từ trước tới nay, khi nói Ðông và Tây là ám chỉ phương Ðông là Trung Hoa, phương Tây là Ấn độ. Ngày nay, người ta không hiểu như vậy nữa, Ðông là hướng Ðông, Tây là hướng Tây, phương hướng vẫn không thay đổi, nhưng thay đổi cảnh giới. Bây giờ Tây phương cần phải có Tổ sư xuất hiện. Tổ sư ở Ðông phương đã có nhiều rồi. Nhiều đến nỗi giống như nước chảy tới phương Tây, do đó bất cứ ai muốn làm Tổ sư, đừng có ngủ nhiều quá là có thể làm được. Một khi giác ngộ thì Ðông chẳng phải Ðông, Tây chẳng phải Tây. Nam Bắc cũng vậy.         Tại sao? Bởi hiện nay chúng ta có sự quan hệ với mặt trăng. Cho nên chúng ta từ vị trí này chúng ta không biết đi về phía nào, nên chẳng còn chỗ nào gọi là Nam, Bắc, Ðông, Tây. Bây giờ chúng ta là chỗ khởi nguyên, là điểm trung tâm. Tuy nhiên, gọi là trung mà không có trung, nó biến thành đại mà không có cái gì ở ngoài nó, là tiểu mà không có gì ở trong nó, giống như câu mà tôi đã nói:

                                        “Vô đại vô tiểu vô nội ngoại

                                         Tự tu tự liễu tự an bài”.

          Tới được cảnh giới này thì các vị có thấy là nhiệm mầu không? Thực chẳng còn gì rắc rối, chẳng còn chút gì phiền não nữa. Thế nhưng cái cảnh giới không lớn, không nhỏ, không trong, không ngoài, cuối cùng nó là cái gì? Nếu quý vị hiểu được thì tôi chẳng cần nói ra quý vị cũng biết, còn như không hiểu được thì dù tôi có nói quý vị cũng vẫn chẳng hiểu.

 

Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

(Do đó, nói chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, tức nói chú rằng: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha).

咒乃密分匪思量   如王詔旨僉同遵

亦是軍中祕密令    問答不符便執行

大乘妙理離分別    凡夫知見妄緣真

因指望月指非月    藉咒明心咒即心

Chú nãi mật phân phỉ tư lượng

Như vương chiếu chỉ thiêm đồng tuân

Diệc tự quân trung bí mật lệnh

Vấn đáp bất phù tiện chấp hành

Ðại thừa diệu lý ly phân biệt

Phàm phu tri kiến vọng duyên chân

Nhân chỉ vọng nguyệt chỉ phi nguyệt

Tạ chú minh tâm chú tức tâm

 

          Chú thì không dịch nghĩa được, nó là một trong bốn loại bất khả phiên, Ðây là phiên dịch chữ, chớ không phiên dịch âm đọc, nên không cần nói về nó, bởi ý nghĩa của nó chẳng thể nghĩ bàn.

Chú nãi mật phần phỉ tư lượng. Chú thuộc về mật giáo, nên không thể không thể nghĩ lường. Phỉ tư lương nghĩa là chẳng nghĩ ngợi, suy lường. Quý vị không thể dùng bất cứ tư tưởng nào để suy tưởng nó là gì? Tầm tư tưởng của quý vị không thể tới được chỗ này, đây chính là cảnh giới “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, tức là chỗ tắt ngăn ngôn ngữ và diệt dòng tâm tưởng.

          Như vương chiếu chỉ thiêm đồng tuân. Chú được ví như chiếu chỉ của nhà vua, như đã giảng ở trên về bốn tỷ dụ đem ra so sánh với ý nghĩa của chú. Thiêm đồng tuân nghĩa là mọi người đồng tuân hành, vì khi chiếu chỉ của nhà vua đã ban ra thì toàn thể thần dân ai nấycũng đều phải tuân thủ.

          Diệc tự quân trung bí mật lệnh. Như đã giảng ở trên, chú giống như là khẩu lệnh bí mật trong quân đội. Chẳng hạn, hôm nay khẩu lệnh là “thắng lợi”, khi người ta hỏi quý vị khẩu lệnh, quý vị lại trả lời “cát tường”, tức là không đúng, họ sẽ tóm bắt quý vị đấy. Số là quân lính rất đông nên mỗi ngày phải dùng một mật hiệu, để có thể phân biệt bạn hay thù. Chú cũng có ý nghĩa giống như vậy.

          Vấn đáp bất phù tiện chấp hành. Vấn đáp chẳng phù hợp, tức là nói sai mật khẩu, thì tức khắc người ta sẽ phản ứng lại, tức chấp hành nhiệm vụ.

          Ðại thừa diệu lý ly phân biệt. Bát-nhã thuộc về pháp Ðại-thừa. Chẳng còn sự phân biệt nào trong cái diệu lý chẳng thể nghĩ bàn của pháp này, nó quét sạch hết mọi pháp, lià hết mọi tướng. Pháp Bát-nhã là vậy, mọi thứ khi nói xong là tan biến theo

          Phàm phu tri kiến vọng duyên chân. Phàm phu cho rằng cái biết, thấy, và các loại tri kiến sanh bởi vọng tưởng phan duyên của họ đều là thật hết. Ðây không khác gì thừa nhận giặc làm con, chấp trước vào hết thảy mọi thứ có hình có tướng; chấp vào các bóng ảnh. Thật ra, những thứ đó chỉ là bóng, không phải thật.

          Nhân chỉ vọng nguyệt chỉ phi nguyệt. Kinh điển cốt chỉ ra con đường cho chúng ta theo đó tu đạo, tỷ như lấy ngón tay để chỉ mặt trăng nói: “Ở chỗ đó đó.” Vì tưởng ngón tay là mặt trăng, nên người ta chỉ nhìn ngón tay thay vì mặt trăng. Nhưng ngón tay đâu phải là mặt trăng. Cho nên quý vị đừng lầm lẫn đầu ngón tay là mặt trăng. Bộ kinh này cũng như vậy, bảo quý vị tu đạo, đừng nên lầm rằng kinh là đạo. Muốn được Ðạo ta cần phải tu, nếu chẳng tu, mà coi kinh là Ðạo thì quý vị đã sai lầm.

          Tạ chú minh tâm chú tức tâm. Bởi chú là không thể nghĩ bàn, nên chúng ta mượn sức mạnh của chú để soi sáng tâm mình. Muốn vậy, quý vị chỉ cần xa rời tâm phân biệt, tâm phan duyên, tâm vọng tưởng và trì tụng chú. Trì chú không hiểu chú, nhưng chỗ không hiểu đó, lại là chỗ hiểu biết chân chánh, cho nên nói mượn chú làm minh tâm kiến tánh. Chú tức tâm, chú nào tức là tâm nấy, nếu minh tâm kiến tánh rồi thì chúng ta sẽ hiểu hết ý nghĩa của chú.

 


Ghi chú:

[1] “Phi đài” là hai chữ trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng:

                                                            Bồ đề bổn vô thọ

                                                            Minh kính diệc phi đài

                                                            Bổn lai vô nhất vật

                                                            Hà xứ  nhạ trần ai

Tạm dịch:

                                                            Bồ đề vốn không cây

                                                            Gương sáng cũng chẳng đài

                                                            Xưa nay không một vật

                                                            Nơi nào dính bụi trần

[2] Những dấu chấm câu và ngắt câu trong nguyên văn Tâm Kinh và bản dịch đều phỏng theo đại ý của toàn bài giảng.

[3] Nguyên văn các bài tụng chỉ được chuyển qua âm Hán-Việt, mà không dịch nghĩa thành những câu tụng bằng tiếng Việt, bởi ý nghĩa của các câu tụng sẽ được giảng giải kỹ càng.

[4] Nhị thừa chỉ hai thừa Thanh Văn và Duyên Giác

[5] Phẩm “Hóa Thành Dụ”, kinh Diệu Pháp Liên Hoa

[6] Mật nhân, đó là bổn thể của định lực của mỗi chúng ta–thứ bổn thể định lực của Như Lai và cũng là bổn thể định lực của tất cả chúng sanh. Mọi người đều có bổn thể định lực này, nhưng tự mình không biết, chưa phát giác ra mà thôi; chính vì không biết nên gọi là “mật nhân.” (xin xem Kinh Lăng Nghiêm, “Mật nhân Liễu Nghĩa”).

[7] Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật (Chứng Ðạo Ca).

 

[8] “Tiêu tức” nghĩa là “tin tức” (the news), ngụ ý là “thành tựu”.

[9] Nghĩa các câu kệ trong đoạn này cũng được giảng rõ nên không cần phải dịch sang tiếng Việt.

[10] Ðây nhắc tới các huyền thoại xưa, nói về những thế giới thần tiên ở sâu trong núi và hang động huyền bí, tỷ như trong truyện Ðào Hoa Nguyên Ký của Ðào Tiềm

[11] Ðây là câu trào phúng có vẻ mỉa mai tạm dịch là

                                    Ma-ha-tát, chẳng lo cho ai

                                    A-di-đà chỉ lo cho mình

[12] Tuần là thời gian 10 ngày (thay vì 7 ngày, theo cách chia một tuần lễ theo Tây lịch).

[13] Sanh tướng vô minh

[14]Phạm hạnh dĩ lập, sở tác giai biện, bất thọ hậu hữu”